Nước Anh đỉnh cao của quyền lực tài chính
Ai kiểm soát cán cân quyền lực trên thế giới?
Ai thống trị Quốc hội của chúng ta, đó là những
người theo chủ nghĩa tự do hay theo chủ nghĩa bảo hoàng?
Ai đã thức tỉnh những người Tây Ban Nha yêu nước
không biết đến sợ hãi?
Ai sẽ giúp thế giới duy trì một trật tự cũ
trong khi vẫn tạo ra một kỷ nguyên mới, dù đó là nỗi đau hay niềm vui?
Ai là kẻ xoay vần chính trị trong lòng bàn tay?
Đó có phải là hình bóng hiên ngang, dũng cảm của
Napoléon Đại đế?
Không, đó là Rothschild – một người Do Thái và
cộng sự của ông, Barings – một tín đồ Cơ-đốc giáo.
-Byron-
CHỈ DẪN CHƯƠNG
Kể từ
khi chủ nghĩa tư bản thương nghiệp phát triển vào thế kỷ XVI, nước Anh đã tận dụng
ưu thế thiên thời, địa lợi, nhân hòa; tận dụng triệt để quá trình mở rộng
thương mại ở nước ngoài và bành trướng thuộc địa, nhanh chóng tích lũy khối tài
sản khổng lồ. Cùng với sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp mà nổi bật
là động cơ hơi nước Watt vào những năm 1870, sức sản xuất của Vương quốc Anh
tăng nhanh chóng. Việc thành lập Ngân hàng Anh năm 1694 là một sự kiện lớn
trong lịch sử. Cuối cùng các chủ ngân hàng Anh đã khám phá ra sức mạnh của tín
dụng và dự đoán đó sẽ là một bộ phận quan trọng của lưu thông tiền tệ. Nhờ năng
lực sản xuất vượt trội, nguồn năng lực tài chính của Vương quốc Anh được khuếch
đại lên gấp nhiều lần. Sự kết hợp toàn diện giữa Cách mạng tín dụng, Các mạng
công nghiệp và chủ nghĩa tư bản thương nghiệp đã tạo nên sự giàu có thịnh vượng
chưa từng thấy, một đế chế "Mặt trời không bao giời lặn" hùng mạnh bậc
nhất trong lịch sử nhân loại.
Thế kỷ
XIX là một giai đoạn lịch sử quan trọng đối với sự phát triển và mở rộng của
các ngân hàng quốc tế. Mô thức trỗi dậy của họ ở Anh, Pháp, Đức và Mỹ là hoàn
toàn khác nhau và đặc biệt là ở Anh. Do thực lực vốn tư nhân hết sức hùng hậu,
sự phát triển của các ngành như dệt may, luyện kim, khai thác than, vận tải, đường
sắt, sản xuất máy móc và công nghiệp quân sự trước Cách mạng công nghiệp đều chủ
yếu dựa vào nguồn đầu tư của các ngân hàng tư nhân và vốn huy động trong nước.
Không những cung cấp và đáp ứng nhu cầu vốn của Cách mạng công nghiệp, lượng vốn
của Vương quốc Anh vẫn còn dư thừa. Thêm vào đó ngoài nhu cầu tài trợ nợ công của
Anh và nước ngoài, nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp trong nước đối với
các ngân hàng quốc tế vẫn chưa đủ mạnh. Mặc dù luật pháp của Anh tương đối mềm
mỏng, nhưng tình trạng dư thừa vốn làm cho các ngân hàng cổ phần phát triển
tương đối chậm. Ngân hàng tư nhân vẫn là nguồn lực chủ đạo trong ngành tài
chính của Anh, và giữ bí mật trở thành một trong những truyền thống cốt lõi của
ngành tài chính Vương quốc Anh.
Có tổng
cộng 17 gia tộc ngân hàng tư nhân đứng sau bức rèm bí mật và chi phối toàn bộ
hoạt động của hệ thống ngân hàng nước Anh, thậm chí ngay cả khi Ngân hàng Anh
tiến hành quốc hữu hóa năm 1946, mọi chuyện vẫn như vậy. Trong đó các đại diện
nổi bật là Barings, Rothschild, Schroeder. Họ nắm giữ các kênh tài chính để
phát hành trái phiếu ở Anh và thậm chí ở châu Âu và Mỹ. Ngoài ra, họ còn lũng
đoạn phương hướng lưu chuyển các dòng vốn và tín dụng trên thế giới. Sau khi sở
hữu những khối tài sản khổng lồ, họ bắt đầu từng bước ảnh hưởng đến các quyết định
nội bộ và ngoại giao của các chính phủ. Họ âm thầm kích động tranh chấp giữa
các quốc gia, ủng hộ mạnh mẽ ngành công nghiệp quân sự, rót vốn tài trợ chiến
tranh cho cả hai bên, nhúng tay kích động các cuộc đảo chính, tiến hành
"trong ứng ngoại hợp" để nắm quyền sắp xếp các khoản bồi thường chiến
tranh. Lợi ích của họ đôi khi cũng xảy ra xung đột, và mỗi phe đều có những người
phát ngôn chính trị riêng. Họ lao vào tranh giành các dự án lớn, và trong trường
hợp cực đoan, họ sẽ quyết đấu với nhau trên thị trường tài chính.
Ở đâu có
tiền, ở đó sẽ có canh bạc lợi ích. Ở đâu có nhiều tiền hơn, ở đó sẽ có những cuộc
đấu tranh quyền lực, và khi đã kiểm soát quyền lực thì chắc chắn sẽ có nhiều tiền
hơn.
Trích "Chương 2, Chiến tranh tiền tệ - phần 2 - Sự thống trị của quyền lực tài chính, Song Hong Bing"
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét