Vàng – một loại tiền tệ bị giam lỏng
Bản thân vàng mang trong mình rất nhiều yếu tố
bất ổn. Việc Chính phủ của một số quốc gia lớn vẫn luôn tìm cách lung lạc giá
vàng chính là một trong những yếu tố ấy. Nếu như quân tâm đến chính sách của
Chính phủ đối với vàng trong suốt 20 năm qua, bạn sẽ nhận ra rằng, khi giá vàng
cao đến mức 800 đô-la/ounce (năm 1980), chẳng có Chính phủ nào bán vàng ra. Việc
bán vàng ra khi đó có thể nói là rất hợp thời, lại còn có thể ổn định giá vàng.
Nhưng Chính phủ lại bán vàng ra khi giá vàng xuống thấp nhất (năm 1999). Chính
phủ Anh đã làm như vậy và đó chính là một trong những yếu tố khiến cho giá vàng
trở nên bất ổn.
Robert A. Mundell, năm 1999
Yếu tố làm
bất ổn giá vàng mà Robert A. Mundell nói đến năm 1999 chính là một bộ phận quan
trọng của màn kịch tài chính tinh vi do các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế dàn
dựng kể từ năm 1980. Nhưng việc thao túng gia vàng lại là một kế hoạch tài tình
được dàn xếp nghiêm ngặt với thủ pháp cao siêu khiến người ta khó phát hiện ra.
Việc khống chế thành công giá vàng trong khoảng thời gian hơn 20 năm vẫn là
chuyện thật khó tin trong lịch sử nhân loại.
Điều khó hiểu
nhất chính là tuyên bố của Ngân hàng Anh quốc vào ngày 7 tháng 5 năm 1999. Ngân
hàng này đột ngột thông báo sẽ bán đứt một nửa số vàng dự trữ (chừng 415 tấn).
Đây là lần Ngân hang Anh bán tháo vàng với quy mô lớn nhất kể từ khi cuộc chiến
tranh giữa đế quốc Anh và Napoleon nổ ra. Thông tin động trời này đã khiến cho
giá vàng quốc tế rớt xuống ngưỡng 280 đô-la/ounce.
Mọi người
không khỏi hồ nghi: rốt cuộc thì Ngân hàng Anh muốn gì? Đầu tư ư? Không đúng, bởi
nếu đầu tư thì họ phải bán ra với giá 800 đô-la/ounce từ năm 1980 rồi thu gom
công trái Mỹ kỳ hạn 30 năm với mức lãi suất lên đến 13% vào thời điểm đó để kiếm
lãi. Nhưng Ngân hàng Anh lại phá bĩnh khi bán tháo vàng ra với giá thấp nhất
trong lịch sử là 280 đô-la/ounce vào năm 1999, rồi đi đầu tư công trái Mỹ với
lãi suất khi đó chưa đến 5%. Việc Mundell không thể hiểu được nguyên nhân vì
sao cũng không phải là chuyện lạ.
Phải chăng
Ngân hàng quốc tế không biết gì về làm ăn? Đương nhiên là không phải. Trong suốt
gần 300 năm kể từ khi thành lập vào năm 1694, Ngân hàng Anh đã xưng hùng xưng
bá trên thị trường tài chính, đã trải qua mọi biến cố thăng trầm, thậm chí, đối
với họ, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ đáng là một cậu học trò nhỏ. Vì thế, nếu
nói rằng Ngân hàng Anh ngờ nghệch trong kinh doanh thì thật là nực cười.
Vậy tại sao
Ngân hàng Anh lại hành xử một cách ngược đời như vậy? Chỉ có một lý do duy nhất:
nỗi lo sợ. Họ không sợ giá vàng tiếp tục giảm xuống khiến cho nguồn dự trữ vàng
mất hiệu lực mà lại sợ giá vàng tiếp tục tăng giá! Bởi trong sổ sách giấy tờ của
ngân hàng thì vàng đã không cánh mà bay. Số vàng cần phải thu vào để ghi chép
trong sổ sách kia có thể mãi mãi không thu hồi được.
Ferdinand
Lips – một nhà tài phiệt ngân hàng Thụy Sĩ – đã từng nói rằng, nếu như người
dân Anh biết được ngân hàng trung ương của họ xử trí một cách điên khùng và
khinh suất như thế nào đối với nguồn tài sản chân chính (vàng) mà họ cố công
tích lũy trong suốt mấy trăm năm thì dưới đoạn đầu đài sẽ có khối hộp sọ nằm lổn
nhổn.
Nói một
cách chính xác hơn, nếu người dân thế giới biết được các ngân hàng trung ương
đã thao túng giá vàng như thế nào thì tội lỗi lớn nhất trong lịch sử loài người
sẽ được phơi bày ra ánh sáng.
Vậy thì số
vàng của Ngân hàng Anh đã bốc hơi đi đâu? Hóa ra, số vàng này đã bị các nhà
ngân hàng Anh mang đi cho các đồng nghiệp buôn vàng nén (Bullion Bankers) thuê
mướn mất rồi.
Ngọn ngành
của sự việc là thế này: đầu những năm 90, trục London – phố Wall hạ gục nền
kinh tế Nhật, khống chế được tiến trình thống nhất tiền tệ châu Âu. Tuy tỏ ra hớn
hở đắc chí nhưng các đại gia ngân hàng vẫn không thể nào lơ là mất cảnh giác với
vàng. Nên nhớ rằng, đối với giới tài chính của trục London – phố Wall thì đồng
tiền châu Âu và đồng yên Nhật chỉ là một cái mụn nhỏ mà thôi, trong khi vàng mới
là khối u ác tính. Nếu một khi vàng trở nên có giá thì mọi hệ thống tiền tệ
pháp định sẽ phải thần phục nó. Tuy không còn được coi là tiền tệ của thế giới,
nhưng trước sau vàng vẫn là trở ngại lớn nhất đối với các nhà ngân hàng trong
việc tước đoạt tài sản của người dân thế giới thông qua nạn lạm phát tiền tệ. Tuy
bị "giam lỏng" nhưng vàng vẫn được coi là một thứ tài sản quý với sức
hấp dẫn mãnh liệt. Chỉ cần có chút biến động trong xã hội là người ta lập tức đổ
xô đi mua vàng. Nếu muốn loại bỏ vàng thì các Ngân hàng quốc tế phải tìm cách
"giam lỏng" vàng vĩnh viễn.
Nếu muốn thực
hiện việc này, các nhà ngân hàng cần phải làm sao để cả thế giới thấy được rằng
vàng là một thứ tài sản vô dụng và không có khả năng bảo vệ tiền bạc của người
dân và cũng không thể trở thành một chỉ tiêu ổn định, thậm chí không có sức thu
hút sự quan tâm của các nhà đầu cơ.
Vì vậy, giá
trị của vàng cần được khống chế nghiêm ngặt.
Năm 1968,
rút kinh nghiệm xương máu từ thảm bại của "quỹ hỗ trợ vàng", các nhà
ngân hàng quốc tế quyết không dùng vàng thực để làm thứ đối chọi với nhu cầu thị
trường khổng lồ. Năm 1980, sau khi nâng mức lãi suất lên đến 20% và tạm thời khống
chế được giá vàng đồng thời khôi phục được lòng tin của dân chúng vào đồng
đô-la, các nhà ngân hàng bắt đầu sử dụng một loại vũ khí mới là công cụ tài
chính phái sinh.
Binh pháp
có câu "công tâm vi thượng, công thành vi hạ" (đánh vào lòng người mới
là thượng sách, còn đánh thành chì là hạ sách mà thôi). Các nhà tài phiệt Ngân
hàng quốc tế khá hiểu rõ chân lý này. Vàng cũng tốt, đô-la Mỹ cũng xong, mà cổ
phiếu, công trái, bất động sản cũng đều chấp nhận được. Nhưng dù có dính dáng đến
bất cứ thứ nào trong đó thì cũng có nghĩa là ta đang đùa giỡn với niềm tin! Mà
sản phẩm tài chính phái sinh chính là vũ khí niềm tin siêu cấp. Năm 1987, sau
khi thử nghiệm thành công vụ nổ "bom hạt nhân tài chính phái sinh"
trong cơn đại họa của thị trường chứng khoán, loại vũ khí này đã được đem ra sử
dụng. Năm 1990, thứ vũ khí hiệu năng này lại được sử dụng một lần nữa trên thị
trường chứng khoán Tokyo mà mức độ sát thương của nó khiến cho các nhà Ngân
hàng quốc tế hân hoan ra mặt. Tuy nhiên, cách thức này chỉ có hiệu quả trong một
khoản thời gian ngắn. Vì vàng được coi là mối đe dọa lớn đối với các nhà ngân
hàng, để tạo ra sự đe dọa mang tính lâu dài đối với vàng, người ta cần sử dụng
nhiều loại vũ khí đánh vào lòng tin của dân chúng.
Việc ngân
hàng trung ương tư hữu khống chế để đem lượng vàng dự trữ quốc gia cho thuê là
một trong những loại vũ khí hưu hiệu. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, các nhà
tài phiệt Ngân hàng quốc tế bắt đầu tung ra một chiêu thức mới: cho các nhà
ngân hàng thuê lại nguồn vàng đang dự trữ trong kho của ngân hàng trung ương với
lãi suất cho dù chỉ 1% bởi nếu không làm vậy thì lượng vàng đó cứ "ngủ
yên" trong kho mà chẳng hề sinh lời, lại còn tốn công lau bụi bám vào, tốn
chi phí bảo quản. Quả nhiên, cách thức này đã nhanh chóng trở thành phong trào
rầm rộ ở châu Âu.
Vậy thì các
khách hàng thuê lại vàng của họ là những ai? Đó chính là các đại gia ngân hàng
như công ty JP Morgan chẳng hạn. Dựa vào uy tín "tốt lành" ủa mình, họ
"vay" vàng từ tay các ngân hàng trung ương với lãi suất siêu rẻ 1% rồi
bán ra thị trường vàng, nhận một khoản hoa hồng rồi sau đó mua công trái Mỹ với
lãi suất 5%. Như vậy, họ ăn chắc khoản lãi suất chênh lệch 4% và thủ đoạn này
được gọi là "Giao dịch vàng hưởng lãi suất chênh lệch" (Gold Carry
Trade). Cứ như vậy, việc ngân hàng trung ương bán vàng rẻ mạt đã tạo ra sức ép
buộc với giá vàng và giúp các nhà ngân hàng hưởng một khoản chênh lệch béo bở đồng
thời còn kích thích được nhu cầu của dân chúng đối với công trái Mỹ. Như vậy, một
mũi tên của các nhà ngân hàng đã trúng tới mấy đích.
Tuy nhiên,
việc làm này vẫn hàm chứa một nguy cơ rủi ro. Phần lớn số vàng mà các nhà ngân
hàng vay được từ ngân hàng trung ương là hợp đồng ngắn hạn, thường có hiệu lực
trong khoảng 6 tháng, nhưng đối tượng đầu tư rất có thể là công trái dài hạn,
và khi đến kỳ hạn, các ngân hàng trung ương đơn phương yêu cầu khách hàng hoàn
trả lại số vàng đã vay. Lúc này, nếu giá vàng liên tục tăng cao thì tình cảnh của
các nhà ngân hàng đi vay sẽ cực kỳ nguy hiểm.
Để phòng ngừa
rủi ro này, các thiên tài phố Wall đã tập trung chú ý vào ngành sản xuất vàng.
Họ không ngừng nhồi nhét vào đầu các nhà sản xuất vàng tư tưởng mang tính
"tất yếu lịch sử" rằng, về lâu dài, giá vàng khai thác được sẽ giảm
xuống, chỉ bằng cách chốt giá bán trong tương lai ngay thời điểm hiện tại thì họ
mới có thể tránh được rủi ro. Ngoài ra, các nhà Ngân hàng quốc tế còn có thể
cung cấp một khoản vay lãi suất thấp khoảng 4% và cung cấp kinh phí cho ngành sản
xuất vàng (khảo sát và khai phá). Mức lãi suất này khiến người ta khó có thể từ
chối, hơn nữa, khi thấy giá vàng quốc tế biến đổi hàng năm, thay vì đợi đến sau
này bán vàng hạ giá thì thà ngay bây giờ đem vàng còn nằm trong lòng đất bán ra
với một giá tốt vẫn hơn. Điều này gọi là "hợp đồng viễn kỳ vàng" (bán
vàng trước khi khai thác, Gold Forward Sale).
Vậy là, các
nhà tài phiệt ngân hàng đã có trong tay một sản lượng vàng của tương lai và
dùng chính số vàng này làm thế chấp cho việc hoàn trả nợ vay vàng của ngân hàng
trung ương. Hơn nữa, vì ngân hàng trung ương và các nhà ngân hàng vay vàng vốn
dĩ là người một nhà, cho nên "hợp đồng cho thuê" gần như có thể kéo
dài về thời hạn (Loan Roll Over). Như vậy, các nhà tài phiệt ngân hàng vay vàng
đã được bảo hiểm kép.
Sau một thời
gian ngắn thực hiện ý tưởng này, các thiên tài phố Wall lại bắt đầu tung ra thị
trường một loại sản phẩm tài chính phái sinh mới như hợp đồng giao hàng chậm
(Spot Deferred Sales), hợp đồng viễn kỳ điều kiện (Contingent Forward), hợp đồng
viễn kỳ biến lượng (Variable Volume Forward), Đối xung Delta (Delta Hedging),
và các loại hợp đồng quyền kỳ hạn khác.
Dưới sự trợ
giúp của các ngân hàng đầu tư, ngành công nghiệp sản xuất vàng bắt đầu tham gia
tích cực vào các hoạt động đầu cơ tài chính chưa từng thấy trước đó. Ngành sản
xuất vàng của các nước bắt đầu ồ ạt đem lượng vàng dự trữ dưới long đất quy
tính thành sản lượng hiện hữu để tiến hành "bán trước". Ngành sản xuất
vàng của Úc thậm chí còn đem sản lượng vàng trong 7 năm tới bán ra ngoài. Tổng
số hợp đồng sản phẩm tài chính phái sinh mà Ashanti – công ty sản xuất vàng
quan trọng của Ghana, Tây Phi – đã mua dưới sự
"tham mưu" của Goldman Sachs và 16 nhà ngân hàng đã lên đến 2.500 bản,
đến tháng 6 năm 1999, tài sản thể hiện trên sổ sách của công ty này đã đạt mức
290 triệu đô-la Mỹ. Các nhà bình luận chỉ ra rằng, các công ty sản xuất vàng
đang dùng kim loại quý này để đầu cơ mạo hiểm.
Trong trào
lưu "cách mạng đối xung" đang dân lên trong ngành sản xuất vàng, công
ty vàng Barrick có thể được xem là một ví dụ điển hình về quy mô hoạt động. Quỹ
mô đối xung của Barrick đã vượt qua phạm trù hợp lý của việc khống chế rủi ro,
vì thế cũng chẳng có gì sai nếu nói sách lược của công ty này là một canh bạc lớn
về tài chính. Trong hành động mua khống vàng một chiều với số lượng lớn,
Barrick đã tạo ra sức ép giá mang tính cạnh tranh giữa các đơn vị cùng ngành,
và kết quả tất yếu là thị trường không còn cơ hội để tồn tại. Trong báo cáo thường
niên của mình, Barrick đã thổi phòng sách lược đối xung phức tạp nhằm khiến cho
họ có thể bán vàng ra với giá cao hơn thị trường. Thực ra, một phần trong số
vàng mà Barrick bán được trên thị trường là vàng "vay" với lãi suất
thấp từ các ngân hàng trung ương. Khoản thu nhập có được từ việc bán tháo lượng
vàng "vay" này trên thị trường được dùng để mua công trái Mỹ. Khoản
chênh lệch lãi suất từ việc mua bán này chính là kết quả diệu kỳ được sinh ra từ
cái gọi là "công cụ đối xung phức tạp" – một trò bịp bợp tài chính điển
hình.
Tuy nhiên,
giá vàng không ngừng tuột dốc, và điều này phù hợp với lợi ích của các bên tham
gia. Khi giá vàng tuột dốc, do đã chốt giá bán ra, các đơn vị sản xuất vàng đã
biến báo giá vàng trên giấy tờ sổ sách và khẳng định vàng sẽ còn tăng giá. Vậy
là, ngành sản xuất vàng trở thành kẻ đồng lõa trong việc làm cho giá vàng sụt
giảm một cách kỳ quái. Thực ra, thứ mà ngành sản xuất vàng có được chỉ là thứ lợi
lộc nhất thời, còn cái mất đi lại là lợi ích lâu dài.
Rush More –
Chủ tịch Ủy ban hành động chống lũng đoạn vàng (Gold Anti-Trust Action
Committee) đã gọi Barrick
là "Gold Cartel". Thành viên chính của tập đoàn này bao gồm: công ty
JP Morgan, Ngân hàng Anh, Deutsche Bank, Ngân hàng Hoa Kỳ, Công ty Goldman
Sachs, Ngân hàng thành toán quốc tế (BIS), Bộ Tài chính Mỹ và Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ.
Trong khi giá vàng được đẩy lên cao không ngừng
do nhu cầu thị trường tăng mạnh thì ngân hàng trung ương lại đột kích vào tuyền
thứ nhất bằng việc công khai bán tháo một lượng lớn vàng, mãi cho đến khi các
nhà đầu tư cảm thấy khiếp sợ mới thôi.
Trong phiên điều trần tại Ủy ban ngân hàng nghị
viện tháng 7 năm 1998, Greenspan đã lên tiếng nói rằng: "Vàng là một loại
hàng hóa có rất nhiều sản phẩm tài chính phái sinh được tiến hành giao dịch
ngoài thị trường. Nhà đầu tư không thể khống chế lượng cung ứng vàng, nếu như
giá vàng tăng thì các ngân hàng trung ương sẽ 'cho thuê' vàng dự trữ bất cứ lúc
nào". Hay nói cách khác, Greenspan đã công khai thừa nhận, nếu cần thiết,
giá vàng hoàn toàn nằm dưới sự khống chế của các nhà ngân hàng trung ương.
Tháng 3 năm 1999, chiến tranh Kosovo bùng phát,
tình hình đã có sự thay đổi. Cuộc tập kích của khối NATO chưa thể đạt hiệu quả
sớm như mong muốn của các nhà hoạch định chiến lược, trong khi đó, giá vàng
không ngừng leo thang. Một khi giá vàng liên tục tăng và bị mất kiểm soát thì
các nhà ngân hàng tất yếu phải gom vàng với giá cao trên thị trường để hoàn lại
cho các ngân hàng trung ương. Nếu trên thị trường không có nhiều hàng hóa hoặc
ngành sản xuất vàng lấy sản lượng chưa khai thác dưới lòng đất làm thế chấp lâm
vào cảnh phá sản, hoặc trữ lượng vàng dưới đất không có, thì không chỉ nhà Ngân
hàng quốc tế phải gánh chịu tổn thất nặng nề mà khoản dự trữ vàng của các ngân
hàng trung ương cũng sẽ thiếu hụt trầm trọng. Nếu như sự việc bại lộ thì ắt sẽ
có kẻ phải bước lên đoạn đầu đài. Trong tình huống khẩn cấp như vậy, ngày 7
tháng 5 năm 1999, Ngân hàng Anh đã phải ra tay.
Trong tình cảnh này, tháng 9 năm 1999, các nhà
tài phiệt ngân hàng trung ương châu Âu đã ký "Thỏa thuận Washington"
nhằm hạn chế tổng lượng vàng bán ra hoặc cho thuê trong vòng 5 năm tới của các
nước. Tin tức truyền đi, lãi suất vàng "cho thuê" đã nhảy vọt từ 1%
lên đến 9% trong vòng mấy tiếng đồng hồ, khiến cho các nhà sản xuất làm khống
vàng và sản phẩm tài chính phái sinh của các nhà đầu cơ đều bị tổn thất thảm hại.
Thị trường vàng sôi động trong gần 20 năm cuối
cùng cũng đã chấm dứt thời hoàng kim của mình và mở ra một tường lai ảm đạm cho
thị trường hàng hóa.
Năm 1999 đánh dấu một bước ngoặt chiến lược quan
trọng trên chiến trường vàng. Thời điểm được ví như cuộc chiến tranh bảo vệ
Volgagrad trong Thế chiến thứ hai vậy. Kể từ đây, các nhà ngân hàng vẫn chưa thể
giành được thế chủ động trên chiến trường vàng. Hệ thống tiền tệ pháp định lấy
đồng đô-la Mỹ làm biểu tượng đã phải lùi bước trước sự tấn công mạnh mẽ của
vàng.
Ngoài việc khống chế giá vàng, các nhà Ngân hàng
quốc tế còn đặt nền móng cho cuộc chiến thứ hai – cuộc chiến dư luận và cuộc
chiến học thuật. Thành công lớn nhất của các nhà Ngân hàng quốc tế chính là việc
"tẩy não" một cách hệ thống đối với giới kinh tế học, dẫn dắt giới học
thuật bước vào trị lường gạt dân thường. Trong khi phần lớn các nhà kinh tế học
hiện đại đặt ra câu hỏi đầy nghi vấn về công dụng của vàng thì các nhà tài phiệt
Ngân hàng quốc tế lại cảm thấy hí hửng vì điều đó có nghĩa là mọi việc vẫn đang
nằm trong tầm khống chế của họ.
Vậy chế độ tiền tệ pháp định có gì tốt không? Không
phải là chúng ta đã sống dưới chế độ tiền tệ pháp định này suốt 30 năm rồi đó
sao? Kinh tế không phải là đang phát triển như thường đó sao?
Câu trả lời của John Exeter – nguyên Phó Chủ tịch
ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Phó Chủ tịch Tập đoàn Hoa Kỳ
là: "Với hệ thống như vậy, chẳng có quốc gia nào cần phải chi trả tiền bảo
đảm giá trị tiền gửi cho một quốc gia khác. Bởi họ không chịu sự trói buộc của
quy luật hối đoái (tiền vàng). Chúng ta có thể dùng tiền giấy để mua dầu, bất kể
với số lượng tiền in là bao nhiêu. Các nhà kinh tế học đã xem thường khát vọng
của nhân dân với một loại tiền tệ có thể dùng làm tài sản tích trữ. Trên thực tế,
họ đã từ chối thừa nhận vàng là tiền tệ mà nhận định một cách võ đoán rằng vàng
chỉ là một loại hàng hóa phổ biến giống như chì hay kẽm và chẳng có vị trí gì
trong hệ thống tiền tệ. Thậm chí, họ còn đề nghị Bộ Tài chính ngừng tiếp tục
tích trữ vàng đồng thời từng bước bán tháo vàng ra thị trường. Sau khi xử lý
xong vàng, họ bắt đầu tùy ý xác định giá trị của tiền giấy. Họ đã không cho
chúng ta biết làm thế nào mà thứ giấy nợ 'IOU' luôn tăng trưởng với tốc độ thần
kỳ lại có thể thực hiện được chức năng bảo đảm giá trị tiền tệ. Hầu như họ hoàn
toàn không ý thức được rằng việc dùng loại tiền giấy có tốc độ phát triển sẽ có
ngày tạo nên gánh nặng nợ nần".
Keynes và Friedman chỉ là phiên bản của John Law
trong thế kỷ 20. Họ đã xem thường luật hoán đổi từ tiền giấy sang vàng và cố ý
sử dụng bộ óc của các nhà kinh tế học hoặc các chính trị gia cho việc in ấn tiền
giấy. Họ cho rằng, điều này có thể đi ngược với quy luật tự nhiên, tạo nên của
cải theo cách bịa đặt dối trá, triệt tiêu chu kỳ thương mại, đảm bảo toàn dân
luôn có việc làm và xã hội mãi mãi phồn thịnh. Điều này cũng có nghĩa rằng một
số nhà kinh tế học nào đó đã đặt ra chính sách theo khuynh hướng chính trị
riêng mà không cần mạo hiểm tiền bạc của bản thân. Họ sử dụng trí tuệ kiểu John
Law thời đó, nghĩa là uyên bác, tùy ý quyết định chính sách tiền tệ, tài chính,
thu thuế, thương mại, giá cả, thu nhập, và thậm chí còn nói cho chúng ta biết rằng
những điều này là tốt nhất cho chúng ta. Như vậy, họ đã điều khiển nền kinh tế
vi mô của chúng ta.
Đại đa số các nhà kinh tế học hiện nay đều là những
người được các học trò của Keynes "bồi dưỡng" và "huấn luyện",
bao gồm cả những người đã giành được giải thưởng Nobel như Paul A. Samuelson –
tác giả của cuốn giáo trình "Kinh tế học" nổi tiếng. Trong giáo trình
của ông đầy rẫy những công thức số học và các loại biểu đồ. Nhưng khi đọc đến
quan điểm của ông đối với vàng, người ta mới phát hiện ra rằng, cách nhìn của
ông ta hầu như chẳng có giá trị lịch sử nào mà tỏ ra hết sức nông cạn. Ông ta
là một trường hợp điển hình của giới học thuật thế kỷ 20 – những người coi thường
việc nghiên cứu lịch sử của vàng, hoặc là vì một số lý do nào đó mà chọn cách cố
ý xem thường.
Trong một bài bình luận nổi tiếng về vàng sau năm
1968, Samuelson đã nói thế này: "Cuối cùng, vàng đã bị tiền tệ hóa hoàn
toàn. Giá trị của nó hoàn toàn do cung cầu quyết định, cũng chẳng khác gì đồng,
lúa mạch, bạc hay muối cả. Nếu như đã mua vàng với giá 55 đô-la Mỹ/ounce và bán
ra với giá 68 đô-la Mỹ/ounce, một tù trưởng của vùng Trung Đông nhất định sẽ kiếm
được bộn tiền. Nhưng nếu như mua vào với giá 55 đô-la Mỹ mà bán tháo ra với giá
38,5 đô-la thậm chí là 33 đô-la Mỹ/ounce thì đảm bảo rằng ông ta sẽ thua đến mức
chẳng còn áo mà mặc".
Samuelson tin rằng, một khi vàng bị hất văng ra
khỏi hệ thống tiền tệ thì nhu cầu đối với vàng chỉ hạn chế trong mấy loại nhu cầu
công nghiệp rất nhỏ như ngành trang sức. Cho nên, ngày 15 tháng 8 năm 1971, sau
khi Nixon đóng cửa vàng, Hiệp ước Bretton Woods không còn hiệu lực thì vàng đã
không còn là tiền tệ nữa, và cũng chẳng còn ai cần đến vàng nữa. Đến năm 1973,
vị giáo sư này cho rằng, mức 75 đô-la Mỹ/ounce vàng năm 1972 nhất định sẽ không
duy trì được lâu, cuối cùng giá vàng sẽ rớt xuống dưới mức 35 đô-la Mỹ/ounce.
Điều khiến vị giáo sư này ngọng miệng chính là bảy năm sau, giá vàng đã tăng vọt
lên đến 850 đô-la Mỹ/ounce.
May là Samuelson không giữ chức Giám đốc quỹ đối
xung của phố Wall, nếu không thì thứ mà ông ta mất đã không chỉ là quần áo trên
người.
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 9.
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét