Công nợ của Mỹ và tờ "hóa đơn tạm" của người dân châu Á
Vào thập
niên 80 của thế kỷ 20, Mỹ đã phát hành một số lượng lớn công trái với lãi suất
vô cùng cao. Lượng công trái này có sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà đầu tư
tư nhân cũng như các tổ chức phi tài chính. Các nhà ngân hàng trung ương nước
ngoài cũng nhân cơ hội này nhảy vào. Trong quá trình tái sử dụng, đồng đô-là hiện
có này sẽ tạo ra một số đồng tiền mới.
Đến thập
niên 90, do hạ gục được một số loại tiền tệ cạnh tranh chủ yếu trên thế giới
nên công trái Mỹ vẫn được coi là có giá. Giá nhập khẩu các loại hàng hóa thường
ngày hết sức rẻ mạt trong khi tiền tệ của các nước thuộc Thế giới thứ ba đang
ngày càng trở nên mất giá. Nước Mỹ đã có những ngày tháng hoàng kim với mức
tăng trưởng cao và nạn lạm phát hầu như rất thấp.
Từ năm 2001
đến nay, do ngân sách cho cuộc chiến chống khủng bố tăng mạnh và các loại công
trái kỳ hạn được phát hành với số lượng lớn từ thập niên 80 liên tiếp đáo hạn
cũng như việc chi trả lãi suất ngày càng lớn nên Mỹ phải phát hành nhiều công
trái hơn nữa để thay thế cho lượng công trái cũ. Từ năm 1913 đến năm 2001,
trong vòng 87 năm, Mỹ đã phát hành lượng công trái trị giá khoảng 6.000 tỉ
đô-la. Còn từ năm 2001 đến năm 2006, trong thời gian hơn 5 năm ngắn ngủi, Mỹ đã
phát hành thêm một lượng công trái trị giá gần 3.000 tỉ đô-la. Tổng lượng công
trái của Mỹ đã lên đến 8.600 ti đô-la, tăng 2,55 tỉ USD mỗi ngày. Tiền chi trả
lãi suất công trái của Chính phủ chiếm vị trí thứ ba trong ngân sách chi tiêu của
Chính phủ, chỉ xếp sau chi phí y tế và quốc phòng, mỗi năm trả lãi gần 400 tỉ
đô-la, chiếm 17% tổng thu nhập tài chính của nước này.
Từ năm 1982
đến năm 1992, tốc độ phát hành tiền tệ của Mỹ bình quân tăng thêm 8%. Nhưng từ
năm 1992 đến năm 2002, tốc độ phát hành đã đạt mức 12%. Bắt đầu từ năm 2002, do
nhu cầu chi tiêu cho cuộc chiến chống khủng bố và kích thích nền kinh tế đang
ngấp nghé suy thoái, trong tình hình lãi suất sau chiến tranh gần như ở mức thấp
nhất, tốc độ phát hành thêm của đồng đô-la Mỹ đã đạt mức 15%. Thực ra, nếu nhìn
vào biểu đồ gia tăng công trái của Mỹ thì tất cả những điều này đều là tất yếu.
Trong lịch
sử loài người vẫn chưa có một quốc gia nào mà mức dự chi tương lai lại vượt giới
hạn cho phép một cách nghiêm trọng như vậy. Mỹ đã không những đã chi tiêu tài sản
của người dân nước mình mà còn chi tiêu tài sản tương lai của người dân các nước
khác. Bất cứ một người nào có hiểu biết về đầu tư cổ phiếu đều có thể nhận ra rằng,
đường cong của biểu đồ này cuối cùng sẽ dẫn đến tình trạng gì.
Kể từ sau sự
kiện 11 tháng 9 năm 2001, để cứu vãn thị trường cổ phiếu và thị trường công
trái, Alan Greenspan đã giảm lãi suất đồng đô-la từ 6% xuống còn 1%, bất chấp hậu
quả mà nó gây ra, khiến cho đồng đô-la Mỹ tràn ngập trên toàn thế giới. Và cuối
cùng thì mọi người cũng hiểu ra rằng, đồng đô-la Mỹ chẳng qua chỉ là tờ giấy có
in hoa văn màu xanh. Những người nắm giữ đồng đô-la Mỹ trên toàn thế giới hầu
như cùng dốc vốn vào các loại tài sản quý như bất động sản, dầu mỏ, vàng, bạc
hay hàng hòa chủ lực. Một nhà đầu tư người Pháp nói: "Người New York có thể
phát hành tiền giấy đô-la, nhưng chỉ có chúa mới có thể phát hành dầu mỏ và
vàng". Hậu quả là, giá dầu thô tăng từ 22 đô-la Mỹ/thùng lên 60 đô-la Mỹ/thùng.
Giá vàng, bạc, bạch kim, niken, đồng, kẽm, chì, đậu tương, đường, cà phê, ca
cao đều tăng giá từ 120% đến 300% so với giá của năm 2002. Nhưng các nhà kính tế
học vẫn phát biểu chắc nịch rằng, tỉ lệ lạm phát tiền tệ chỉ dao động ở mức 1%
- 2%. Khi đề cập đến vấn đề này, có lẽ mọi người sẽ nhớ đến câu nói của Mark
Owen rằng: "trên thế giới có ba kiểu nói dối: những lời nói dối, những lời
nói dối đáng chết và những con số thống kê".
Điều khiến
cho người ta bất an là tổng nợ của nước Mỹ đã lên đến 44.000 tỉ đô-la. Những
khoản nợ này bao gồm công trái liên bang, công trái của các bang và công trái
Chính phủ các địa phương, nợ quốc tế và các khoản nợ tư nhân. Những khoản nợ
này nếu tính bình quân thì mỗi người dân Mỹ phải gánh chịu một khoản nợ nần 150
nghìn đô-la Mỹ, như vậy, một gia đình 4 người phải gánh một khoản nợ gần 600
nghìn đô-la Mỹ. Trong các khoản nợ tư nhân, điều khiến người ta chú ý nhất
chính là các khoản nợ cho vay mua nhà và khoản nợ tín dụng với những con số khổng
lồ. Nếu như tính theo lãi suất cố định là 5% thì với 44.000 tỉ đô-la, mỗi năm
người dân cần phải chi trả một khoảng lãi suất lên đến 2.200 tỉ đô-la, gần như
tương đương với tổng thu nhập tài chính cả năm của Chính phủ liên bang Mỹ. Gần
70% trong toàn bộ các khoản nợ được tạo ra từ năm 1990 trở về sau. Nước Mỹ hiện
tại đã không thể phát động cuộc chiến tranh lãi suất cao như đầu thập niên 80 để
bóc lột các nước thuộc Thế giới thứ ba, vì nước Mỹ cũng là một con nợ thâm niên
và bất cứ chính sách lãi suất cao nào cũng đều đồng nghĩa với vấn đề tự sát
kinh tế.
Việc
"tiền tệ hóa" các khoản vay mượn cộng thêm vấn đề dự trữ vàng cục bộ
chính là những yếu tố tạo ra bội chi tài sản tương tai của người dân Mỹ. Đến
năm 2006, tổng số tiền đóng thuế thu nhập cá nhân của 300 triệu người dân Mỹ chỉ
lưu lại ở Chính phủ liên bang trong một khoảng thời gian ngắn rồi sau đó lập tức
được chuyển toàn bộ vào ngân hàng để chi trả lãi suất của đồng đô-la vay mượn.
Chính phủ không được phép sử dụng một đồng thuế nào của người dân. Ngân sách
dành cho giáo dục ở địa phương chủ yếu dựa vào nguồn thu thuế sản xuất tại địa
phương đó. Việc xây dựng và duy tu các con đường cao tốc trên toàn nước Mỹ được
lấy từ nguồn thuế dầu khí, còn chi phí chiến tranh đối ngoại thì lấy từ thuế
doanh nghiệp do các công ty Mỹ cống nạp. Nói cách khác, ba trăm triệu người dân
Mỹ đã bị các nhà ngân hàng "thu thuế gián tiếp" trong suốt mấy chục
năm và vẫn tiếp tục bị bóc lột hết năm này qua năm khác. Khoản tích lũy của người
dân Mỹ lại bị các nhà ngân hàng róc thêm một lớp nữa thông qua việc "thu
thuế tồn tại" và lạm phát tiền tệ dài hạn.
Trước hết,
khoan hãy bàn về việc liệu con nợ ở Mỹ có khả năng hoàn trả hết các khoản nợ chồng
chất hay không. Vấn đề là Chính phủ Mỹ không thể và cũng không nghĩ đến chuyện
thanh toán hết công nợ. Chính phủ Mỹ luôn tìm cách để phát hành thêm công trái
mới nhằm ngấm ngầm thay thế lượng công trái cũ và cái vòng tuần hoàn này cứ lặp
đi lặp lại mãi mãi. Ngân hàng Philadenphia thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã chỉ
ra rằng: "Nhiều nhà phân tích cho rằng, công trái là thứ tài sản hết sức hữu
dụng, thậm chí còn được coi là phúc âm của nền kinh tế. Họ cũng cho rằng, không
cần giảm lượng công trái xuống".
Nếu như một
cá nhân có thể dựa vào những khoản nợ vay ngày càng nhiều để tạo ra một cuộc sống
xa xỉ mà chẳng cần phải hoàn trả nợ nần thì có lẽ chẳng còn việc nào dưới gầm
trời này lại tốt hơn thế. Điều này hiện đang cổ vũ và phát huy ở Mỹ. Các nhà
kinh tế học cho rằng, không có sự khác biệt nào về bản chất giữa việc dùng những
khoản nợ gia tăng không ngừng để hưởng thụ "cuộc sống thiên đường" và
việc tổ chức in ấn nhiều tiền giấy hơn để có thể có được cuộc sống giàu sang
vương giả.
Các học giả
này còn chỉ trích các quốc gia châu Á trong việc tích lũy quá nhiều tài sản khiến
cho nền kinh tế thế giới trở nên mất cân bằng. Cái thứ luận điệu ngớ ngẩn này đủ
để chứng minh sự duy đồi về đạo đức của họ như thế nào. Người dân châu Á đã cóp
nhặt, tích lũy bao nhiêu năm để có một số tiền nhất định, nhưng lại bị các nhà
tài phiệt ngân hàng hút vào cuộc "thí nghiệm vĩ đại" có quy mô chưa từng
thấy trong lịch sử nhân loại.
Nhu cầu đối
với công trái Mỹ của nền kinh tế châu Á "hướng đến xuất khẩu" cũng
tương tự như việc chịu cho kẻ khác hút máu vậy. Một khi không hút được máu,
toàn thân chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu, bứt rứt. Nước Mỹ cũng vui vẻ dùng thứ
công trái "vĩnh viễn không hoàn trả" này để viết biên lai tạm thời
cho người dân châu Á.
Summers, cựu
Bộ trưởng Tài chính Mỹ đã chỉ ra rằng, nếu như bình quân mỗi tuần Trung Quốc ngừng
mùa một lượng công trái trị giá mấy trăm triệu đô-la của Mỹ, thì nền kinh tế Mỹ
sẽ gay go to, nhưng kinh tế Trung Quốc sẽ gặp không ít phiền phức khi ngành xuất
khẩu vào Mỹ giảm sút. Trên thực tế, đôi bên đã rơi vào trạng thái "cân đối
khủng bố tài chính".
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 9.
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét