Chiến tranh tiền tệ không tuyên mà chiến - phần 8 - hết

Cuộc chiến tiền tệ ở châu Á

Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, trục tài chính London – phố Wall trên chiến tuyền phía đông đã chặn đứng được thế tiến công của nền kinh tế Nhật Bản. Còn trên chiến tuyến phía Tây, trục tài chính này đã đánh bại được nền kinh tế Đông Âu và Liên Xô. Giấc mộng về một hệ thống tiền tệ thống nhất châu Âu của Đức và Pháp cũng theo sự phá bĩnh của Soros mà tạm thời bị gác lại, trong khi châu Phi và châu Mỹ Latinh chẳng khác nào cá nằm trên thớt. Các nhà Ngân hàng quốc tế đắc chí hả hê. Riêng "mô hình kinh tế châu Á" của khu vực Đông Nam Á đang ngày càng phát triển lại là điều khiến họ cay cú.

Chính phủ các nước trong khu vực này theo đuổi mô hình phát triển với đặc điểm nổi bậc là lấy phát triển kinh tế làm mục tiêu chính, tập trung nguồn lực quốc gia để đột phá vào những lĩnh vực có tính chất trọng yếu, coi trọng đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao tích lũy của người dân. Bắt đầu từ những năm 70, nền kinh tế của các nước trong khu vực Đông Nam Á đã phát triển nhanh chóng, và kết quả là, các nước này bước vào thời kỳ phồn thịnh chưa từng có, đời sống của người dân ngày một nâng cao, trình độ giáo dục bình quân tăng cao ổn định, chỉ số phân hóa giàu nghèo được giảm thiểu nhanh chóng. Mô hình phát triển này hoàn toàn đi ngược lại với mô hình "kinh tế thị trường tự do" mà "nhận thức chung Washington" (Washington Consensus) đã ra sức ủng hộ, và đang ngày càng lôi kéo được sự chú ý của các quốc gia đang phát triển, gây cản trở nghiêm trọng đến phương châm chiến lược cơ bản "giải thể có kiểm soát" do các nhà Ngân hàng quốc tế đã hoạch định.

Mục tiêu chiến lược mà các nhà Ngân hàng quốc tế muốn đạt được khi phát động cuộc chiến bóp chết tiền tệ châu Á chính là: đập tan "mô hình phát triển châu Á" khiến cho đồng tiền châu Á rớt giá nghiêm trọng so với đồng đô-la Mỹ, giảm giá hàng nhập khẩu từ Mỹ nhằm thao túng nạn lạm phát tiền tệ, bán tống bán tháo các tài sản chủ chốt của các quốc gia châu Á cho các công ty Âu – Mỹ, đẩy nhanh tiến độ "giải thể có kiểm soát". Thêm vào đó, các nhà Ngân hàng quốc tế còn đặt ra một mục tiêu khác hết sức quan trọng: kích thích nhu cầu của các quốc gia châu Á đối với đồng đô-la Mỹ. Đối với các quốc gia châu Á đã trải qua cơn khủng hoảng tài chính, việc dự trữ đồng đô-la Mỹ có thể được coi là "bảo vật về giá" trong tay.

Tháng 12 năm 1944, trong cuốn Sự kỳ diệu của kỳ tích châu Á được đăng trên Foreign Affairs, Grumman đã dự báo rằng, nền kinh tế châu Á ắt sẽ gặp phải một rào cản lớn. Những quan điểm mà tác phẩm chỉ ra như đầu tư nâng cao năng suất sản xuất (đầu tư chiều sâu) của các nước châu Á vẫn còn chưa phổ biến. Nếu chỉ dựa vào việc mở rộng quy mô sản xuất (đầu tư chiều rộng) thì cuối cùng, các nước châu Á sẽ gặp phải giới hạn. Đương nhiên, những quan điểm này đều hợp lý. Tuy nhiên, các quốc gia châu Á đều gặp khó khăn khi bắt đầu công cuộc đầu tư này và chìa khóa cho sự phát triển nằm ở chỗ phải làm thế nào để vận dụng một cách phù hợp nhất với từng nơi nhằm tạo ra bàn đạp phát triển. Bản thân những vấn đề này cũng là hiện tượng tự nhiên xuất hiện trong tình hình phát triển của các quốc gia này và hoàn toàn có thể được giải quyết một cách tốt đẹp trong quá trình phát triển. Nếu nhìn từ góc độ văn chương thì có thể thấy rằng, cuốn sách của Grumman chẳng khác nào phát đạn báo hiệu cho cuộc chiến bóp chết tiền tệ châu Á.

Mục tiêu của các nhà Ngân hàng quốc tế là làm thế nào ra đòn hủy diệt đối với Thái Lan.

Trong một bài viết phỏng vấn của tạp chí Times, Soros – vị tướng chỉ huy trận chiến hủy diệt nền kinh tế đất nước Chùa Vàng – đã nói rằng: "Chúng tôi như một bầy sói đứng trên sườn núi cao nhìn xuống bầy nai tơ. Nếu nói nền kinh tế Thái Lan giống như một con hổ nhỏ của châu Á thì thà nói rằng, nó giống với một con thú săn bị thương. Chúng tôi chọn con mồi yếu ớt để đi săn chính là để bảo đảm cho cả bầy nai tơ được an toàn và khỏe mạnh".

Từ năm 1994, do ảnh hưởng từ sự mất giá của đồng nhân dân tệ và đồng yên, ngành xuất khẩu của Thái Lan đã trở nên suy yếu. Đồng bạt Thái xưa nay vẫn gắn chặt với đồng đô-la Mỹ nay lại bị đồng đô-la Mỹ mạnh hơn lấn át và tạo ra khủng hoảng. Cùng với sự sụt giảm trong xuất khẩu, một lượng lớn tiền đầu tư nóng từ nước ngoài chảy vào và không ngừng đẩy giá thị trường chứng khoán, bất động sản lên cao. Lúc này, dự trữ ngoại hối của Thái tuy có hơn 38 tỉ đô-la, nhưng tổng nợ nước ngoài đã lên đến 106 tỉ đô-la kể từ năm 1996. Nguồn vốn rồng chạy ra nước ngoài của Thái đã bằng 8% GDP của nước này. Để đối phó với nạn lạm phát tiền tệ, ngân hàng Thái Lan buộc phải nâng lãi suất đồng bạt lên khiến cho đất nước này đã khó khăn vì nợ nần nay lại càng thêm kiệt quệ.

Thái Lan chỉ còn một lối thoát duy nhất – ngay lập tức chủ động giảm giá đồng bạt xuống. Các nhà Ngân hàng quốc tế tính toán rằng, vì các khoản nợ của Thái đều bằng đồng đô-la Mỹ nên khi đồng đô-la tăng giá, dự trữ ngoại hối của nước này sẽ giảm xuống khoảng 10 tỉ đô-la. Như vậy, đó sẽ là một tổn thất lớn đối với Thái Lan. Các ông trùm tài chính nhận định rằng, chắc chắn Chính phủ Thái Lan sẽ phải bảo vệ đồng bạt bằng mọi giá chứ không bó tay chịu chết.

Diễn biến tình hình sau đó chứng minh rằng, sự phán đoán của các ông trùm tài chính này là hết sức chính xác. Tuy nhiên, tình hình của Thái Lan lúc này khác với Nhật thời trước. Nhật Bản là quốc gia có thực lực tài chính và tích lũy ngoại hối cực kỳ hùng hậu, nếu trực tiếp tấn công vào tiền tệ của Nhật Bản thì chẳng khác nào lấy chứng chọi đá, vì thế các nhà Ngân hàng quốc tế đã dùng công cụ phái sinh tài chính mới hay cách đánh "cự ly xa" và "vượt tầm nhìn" không gian để làm vũ khí. Hiệu quả của cách đánh ấy chẳng khác nào dùng hàng không mẫu hạm mới để đối phó với tàu chiến trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ hai, khiến cho uy lực pháo hạm hùng mạnh của tàu chiến cỡ lớn của Nhật Bản không thể phát huy được mà phải vùi thân đáy biển. Trong tình thế chênh lệch về lực lượng, hơn nữa lại tỏ rõ sự thiếu linh hoạt và bất ngờ trong chiến thuật nên thất bại là điều không thể tránh khỏi.

Trong chiến dịch đối phó với Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á khác, các sát thủ tài chính chủ yếu nhắm vào hệ thống tiền tệ của các quốc gia này. Thông qua hợp đồng kết toán bằng đồng tiền của các nước trong khu vực và hợp đồng kỳ hạn chỉ số cổ phiếu để tạo nên thế gọng kìm, chỉ trong vòng 6 tháng ngắn ngủi, họ đã quét sạch Đông Nam Á và Hàn Quốc.

Sau thất bại toàn diện trong cuộc đối đầu với các sát thủ kinh tế, Thái Lan lại chủ động lao đầu vào cái thòng lọng giăng sẵn của IMF. Vì tin tưởng mù quán đối với "tổ chức quốc tế", Thái Lan đã dễ dàng đem vận mệnh quốc gia giao cho người ngoài quyết định, một lần nữa phạm sai lầm chết người.

Những món nợ nước ngoài kếch xù là nguyên nhân chủ yếu khiến cho các quốc gia đang phát triển rơi vào khủng hoảng. Đạo lý của việc trị quốc và trị gia thực sự giống nhau, mắc nợ nhiều thì tất yếu sẽ dẫn đến sự suy nhược của tình hình sức khỏe nền kinh tế. Trong khi môi trường tài chính bên ngoài không được khống chế hoàn toàn thì việc sinh tồn được hay không chỉ có thể dựa vào sự may mắn. Trong khi các nhà Ngân hàng quốc tế đang thao túng hướng đi địa chính trị quốc tế khiến cho môi trường tài chính mới đầu có vẻ đáng tin cậy và làm tăng gánh nặng nợ nần cho các quốc gia đang phát triển lên rất nhiều lần, các sát thủ tài chính lại thừa thế phát động các cuộc tấn công với xác suất thắng lợi hết sức lớn.

Việc không ý thức rủi ro, đặc biệt không có tâm lý chuẩn bị để đối mặt với những cuộc chiến không tuyên mà chiến vốn khốc liệt và vô hình có thể xảy ra với các thế lực London – phố Wall chính là nguyên nhân quan trọng thứ hai dẫn đến sự thất bại tài chính của Thái Lan.

Khả năng phán đoán sai hướng tấn công của đối thủ để rồi trúng đòn của các sát thủ tài chính và sau đó bị IMF bóc lột thảm hại chính là thất bại kép của Thái Lan. Các nước khác ở khu vực Đông Nam Á đều lặp lại vết xe đổ của Thái Lan.

Dưới sự phối hợp chặt chẻ của các tập đoàn ngân hàng danh tiếng như ngân hàng Hoa Kỳ, công ty Goldman Sachs bắt đầu vào trận săn mồi. Các con mồi "bị thương" được giao ngay cho Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) để quỹ này "giết mổ", trong khi các công ty Âu – Mỹ đang "thèm nhỏ dãi", tề tựu đông đó chờ lệnh xông vào "xỉa mổ".

Nếu việc "xẻ thịt" của các công ty mua được rồi bán lại cho các nhà tài phiệt ngân hàng đầu tư khác có thể mang lại nhiều tỉ đô-là Mỹ thì việc hạ gục và phát mãi những tài sản trọng yếu của một quốc gia có chủ quyền ít nhất cũng có thể cho người ta cơ hội kiếm được gấp mười lần như thế, thậm chí là hàng trăm lần chưa biết chừng.

Nếu có ý muốn thành lập một "Quỹ châu Á" của riêng mình để cứu trợ khẩn cấp cho các quốc gia trong khu vực đang lâm vào cảnh rất khó khăn, đương nhiên các quốc gia châu Á sẽ vấp phải sự phản đối đồng loạt của các quốc gia phương Tây. Talbot – Thứ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ đã nói: "Chúng tôi cho rằng, một cơ cấu thích hợp để giải quyết những vấn đề như thế này phải là tổ chức có tầm vóc vượt ra khỏi khu vực và mang tầm quốc tế chứ không phải là công việc của một tổ chức có tính khu vực mới được thành lập, bởi vì bản thân vấn đề này ảnh hưởng rất sâu sắc và lâu dài, vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ của Thái Lan cũng như Đông Nam Á". Khi đọc lời chào mừng Hiệp hội Nhật Bản ở New York, Summers – Bộ trưởng Tài chính Mỹ - đã cho rằng: "quan điểm dùng tổ chức tiền tệ khu vực để giải quyết khó khăn trong khủng hoảng có thể tạo ra những nguy cơ rủi ro. Cách làm này sẽ giảm thiểu nguồn vốn có thể dùng để ứng phó với khủng hoảng tương lai đồng thời sẽ làm suy yếu khả năng ứng phó với cuộc khủng hoảng vượt tầm châu lục. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến chúng tôi cho rằng Quỹ Tiền tệ quốc tế cần phải đóng vai trò trung tâm".

Fisher – Phó Chủ tịch thứ nhất Quỹ Tiền tệ quốc tế - cảnh báo rằng, quỹ khu vực không thể tổ chức giống như Quỹ Tiền tệ quốc tế, đồng thời nghiêm khắc yêu cầu các quốc gia hữu quan phải thực hiện cải cách kinh tế tổng thể để đổi lấy viện trợ. Fisher nói: "Chúng tôi không cho rằng, việc thiết lập một quỹ khổng lồ hoặc cơ cấu dài hạn đưa ra các điều kiện khác nhau sẽ có ích đối với quốc tế".

Nhật Bản vốn dĩ là nước khởi xướng tích cực "Quỹ châu Á", nhưng dưới áp lực của London – phố Wall thì không thể không phục tùng. Bộ trưởng Tài chính Nhật Sanshuhaku bày tỏ: "Quỹ tiền tệ quốc tế nhất quán sẽ đóng vai trò hạt nhân, phát huy và bảo vệ ổn định tài chính toàn cầu trong cơ cấu tài chính quốc tế. Quỹ này do các quốc gia châu Á kiến nghị thành lập, sẽ được xem là một cơ cấu bổ trợ cho Quỹ Tiền tệ quốc tế". Một khái niệm mới do Tokyo đề xuất chính là việc xây dựng một quỹ không có tiền vốn. Theo như khái niệm mới của Tokyo thì đây là một cơ cấu với tính chất hỗ trợ với một tốc độ rất nhanh, có kế hoạch điều động nguồn vốn từ trước để chi viện cho những đồng tiền nào bị nhà đầu cơ quốc tế tấn công. Khi được đề xuất tại hội nghị thường niên của Ngân hàng thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế tổ chức tại Hồng Kông, kiến nghị thiết lập Quỹ châu Á này lập tức đã tạo nên một sự cảnh giác cao độ cho Mỹ và các quốc gia phương Tây. Họ lo rằng, kiến nghị trên sẽ phá vỡ nhiệm vụ của Quỹ Tiền tệ quốc tế.

Cuối cùng. Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto Ryutaro chỉ có thể bày tỏ: "Chúng tôi không tự cao tự đại đến mức cho rằng mình là quốc gia đầu tàu có đủ sức khôi phục hoàn toàn nền kinh tế khu vực châu Á. Tuy nhiên, Nhật Bản đã chi viện cho một số quốc gia châu Á và sẽ tiếp tục làm như vậy, nhưng không thể đảm nhận vai trò đầu tàu để kéo châu Á thoát khỏi vũng lầy kinh tế".

Phó Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long khi nhắc đến Quỹ châu Á đã cho rằng, nếu vì thay thế vai trò của Quỹ Tiền tệ quốc tế mà phải thành lập Quỹ châu Á thì sẽ có "rủi ro về đạo đức".

Các quốc gia châu Á xây dựng quỹ của riêng mình để tiện giúp đỡ lẫn nhau trong cơn nguy nan – một việc vốn dĩ hết sức tốt đẹp. Tuy nhiên, họ lại gặp phải sự phản đối kịch liệt của trục tài chính London – phố Wall. Nhật Bản vốn được xem là nền kinh tế lớn nhất trong khu vực, nhưng lại bị các nhà ngân hàng khống chế nên thiếu sự quyết đoán và lòng can đảm tối thiểu để giúp các nhà lãnh đạo kinh tế châu Á thoát khỏi khó khăn. Điều này không khỏi khiến cho các nước Đông Nam Á đang rơi vào cảnh tuyệt vọng cảm thấy càng thất vọng hơn. Nhưng điều khiến người ta khó nghĩ nhất chính là quan điểm của Singapore. Việc cho mình và các nước láng giềng của mình cái quyền quyết định giúp đỡ lẫn nhau trong tình huống khó khăn sao lại có thể gây ra "rủi ro đạo đức" và đó là "đạo đức" của ai?

Thủ tướng Malaysia Mahathir là nhà lãnh đạo ở châu Á có cái nhìn tương đối thấu suốt đối với bản chất thực của khủng hoảng. Ông cho rằng: "Chúng ta hoàn toàn chẳng biết được nguồn gốc tiền bạc của họ, cũng chẳng biết rốt cuộc ai đang tiến hành giao dịch, càng không thể biết được sau lưng họ còn có ai? Chúng ta có biết được rằng sau khi kiếm được tiền thì họ có đóng thuế hay không? Và những khoản thuế này được nộp cho ai? Chúng ta có biết ai là kẻ đang đứng sau lưng họ?". Ông cho rằng, với chế độ giao dịch tiền tệ trước mắt, chẳng ai biết được liệu nguồn tiền này có chính đang hay không? "Bởi chẳng có ai dám hỏi, mà cũng chẳng thể kiểm tra được". Chỉ cần những người này phát động tấn công vào bất cứ quốc gia nào, thì lượng tiền không thể đếm xuể của họ sẽ ào ạt chảy vào quốc gia đó. Bất luận là thị trường tiền tệ, hàng hóa kỳ hạn hay giao dịch chứng khoán, đều phải được tiến hành dưới cơ chế hợp lý, "vì vậy, chúng ta cần phải kiểm soát giao dịch tiền tệ, khiến cho nó trở nên minh bạch hơn". Ngay tức khắc, Mahathir đã gặp phải búa rìu dư luận phương Tây. Câu hỏi gay gắt của Mahathir có lẽ không phù hợp lắm để phát biểu trong cuộc họp mang tính ngoại giao, tuy nhiên, ông đã đưa ra câu hỏi một cách đích xác về vấn đề mà mọi người dân châu Á đều nghi hoặc.

Hàn Quốc – một đồng minh thân cận của Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh – sau khi bị cơn bão tài chính quét qua, đã chìa tay về phía Mỹ xin viện trợ nhưng lại không ngờ tại sao nước Mỹ dứt khoát từ chối và nhanh chóng thay đổi đến vậy. Trong con mắt của các nhà Ngân hàng quốc tế, mối quan hệ thân thiết giữa Mỹ và Hàn Quốc đã trở thành mớ xương tàn còn sót lại của cuộc Chiến tranh lạnh. Chính phủ Mỹ đã tranh cãi kịch liệt về vấn đề này, và theo ý kiến của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Madeleine Albright cũng như cố vấn an ninh quốc gia thì Mỹ phải chìa tay ra cứu vớt người anh em, trong khi Bộ Tài chính đại diện cho phố Wall thì cực lực phản đối, thậm chí còn chỉ trích Madeleine Albright chẳng hiểu mô tê gì về kinh tế học. Cuối cùng, Clinton đã phải tuân theo quan điểm của Bộ Tài chính.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Rubin, cuộc khủng hoảng này chính là thời cơ tốt nhất để Mỹ đạp toang cánh cửa kinh tế của Hàn Quốc. Ông ta đã ra lệnh cho Quỹ Tiền tệ quốc tế phải thực thi các biện pháp hà khắc hơn so với trước đây để đối đãi với đồng minh cũ đang xin viện trợ này. Dưới sức ép của Bộ Tài chính Mỹ, IMF đã nâng các điều kiện đối với vấn đề "viện trợ", bao gồm việc Hàn Quốc phải lập tức giải quyết các điều kiện có lợi đối với Mỹ và mọi tranh chấp thương mại với phía Mỹ. Người dân Hàn Quốc đã phẫn nộ chỉ trích các điều kiện khắt khe này, vì Mỹ và IMF luôn sẵn sàng đưa ra cho Hàn Quốc các điều kiện bất hợp lý.

Joseph E. Stiglitz – nhà kinh tế học hàng đầu của Ngân hàng thế giới – cho rằng, việc Hàn Quốc rơi vào khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ khi Bộ Tài chính Mỹ thúc bách Hàn Quốc tiến hành mở cửa thị trường tư bản tài chính toàn diện và nhanh chóng. Với vai trò là cố vấn kinh tế hàng đầu của Clinton, Joseph E. Stiglitz đã kiên quyết phản đối kiểu hành vi thô lỗ này, ông cho rằng kiểu mở cửa này chẳng đem lại lợi ích an toàn nào cho nước Mỹ mà chỉ có lợi cho các nhà ngân hàng của phố Wall mà thôi.

Chính phủ Hàn Quốc trong tình thế bức bách đã phải chấp nhận rất nhiều điều kiện hà khắc của Mỹ, cho phép Mỹ xây dựng những chi nhánh ngân hàng, công ty nước ngoài có thể nắm giữ từ 26% đến 50% cổ phiếu của công ty Hàn Quốc lên sàn, người nước ngoài có thể nắm giữ từ 7% đến 50% cổ phần trong các công ty của nước này. Các công ty của Hàn Quốc cần phải sử dụng nguyên tắc kế toán quốc tế, cơ cấu tài chính cần phải chấp nhận sự thẩm tra nghiệp vụ kế toán quốc tế, ngân hàng trung ương Hàn Quốc cần phải vận hành độc lập, hối đoái tiền tệ theo công thức tư bản, minh bạch hóa tiến trình cho phép nhập khẩu, giám sát cơ cấu công ty, cải cách thị trường lao động. Các nhà ngân hàng Mỹ "thèm nhỏ dãi" trước các doanh nghiệp Hàn Quốc. Chỉ đợi Hàn Quốc đặt bút ký vào bản thỏa thuận, họ sẵn sàng đạp lên nhau để xâu xé con mồi săn đã đuối sức.

Thế nhưng, các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế đã quá xem nhẹ sự mạnh mẽ và ý thức dân tộc của người Hàn. Một quốc gia có được ý thức dân tộc hỗ trợ thì rất khó bị các thế lực bên ngoài thống trị. Người dân Hàn Quốc rơi vào tình cảnh cô lập vô phương bấu víu đã sôi nổi quyên hiến vàng bạc của mình cho quốc gia. Trong tình cảnh toàn bộ nguồn dự trữ ngoại hối đã cạn kiệt thì vàng bạc đã nhanh chóng trở thành phương thức hoàn trả nợ được đông đảo chủ nợ nước ngoài vui vẻ chấp nhận. Điều càng khiến cho các nhà Ngân hàng quốc tế kinh ngạc hơn là, tại Hàn Quốc không xuất hiện làn sóng phá sản hàng loạt của các ngân hàng và công ty quy mô lớn theo hình dung của họ. Các công ty phương Tây hầu như không thể thâu tóm được bất cứ doanh nghiệp lớn nào của Hàn Quốc. Mùa xuân năm 1998, ngay khi Hàn Quốc đã vượt qua được gian khổ, lợi nhuận xuất khẩu của Hàn Quốc đã tăng nhanh cấp kỳ, Chính phủ Hàn Quốc đã nhận ra mọi ngón đòn của phố Wall và dứt khoát bỏ ngay những liều thuốc độc của IMF. Việc xin phá sản của các doanh nghiệp lớn đồng loạt được chính phủ đình chỉ. Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định thanh lý các khoản nợ xấu trị giá 70 đến 150 tỉ đô-la từ hệ thống ngân hàng. Ngay khi Chính phủ nhận được những khoản nợ xấu này, quyền kiểm soát của ngân hàng lại loạt vào tay Chính phủ. Và như vậy, IMF bị đẩy ra khỏi lĩnh vực xây dựng lại hệ thống ngân hàng.

Điều này không những khiến cho các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế và Bộ Tài chính mừng hụt một phen mà còn khiến cho Hàn Quốc càng nhận thức tỉnh táo hơn về tầm quan trọng tất yếu của Chính phủ trong việc lãnh đạo nền kinh tế. Mưu đồ thôn tín công ty phần mềm lớn nhất Hàn Quốc đã tan vỡ, tám công ty phần mềm bản địa của Hàn Quốc cuối cùng đã vận hành suôn sẻ. Kế hoạch thâu tóm công ty ô tô KIA của Ford bị gãy gánh. Hành động tiếp quản hai nhà băng địa phương lớn của ngân hàng nước ngoài đã bị đình chỉ, Chính phủ Hàn Quốc tạm thời quản lý hai ngân hàng này.

Dưới sự chủ trì của Chính phủ, nền kinh tế Hàn Quốc đã tăng trưởng mạnh mẽ trở lại. Điều khôi hài là Quỹ Tiền tệ quốc tế đã hết lời ca ngợi Hàn Quốc như một trường hợp điển hình được họ hỗ trợ.

Năm 2003, Thái Lan đã hoàn trả số nợ 12 tỉ đô-la trước thời hạn. Sau khi thoát khỏi nanh vuốt của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Thủ tướng Thái Lan Thaksin đã tự tin đứng trước quốc kỳ mà thề rằng, nước Thái sẽ "vĩnh viễn không trở lại làm con mồi cho tư bản quốc tế", quyết sẽ không bao giờ cầu xin sự "viện trợ" của Quỹ Tiền tệ quốc tế. Thậm chí Chính phủ Thái Lan còn ngầm khuyến khích các công ty Thái từ chối hoàn trả các khoản nợ của các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế. Và rồi, tháng 9 năm 2006, cuộc đảo chính quân sự đã nổ ra ở Thái Lan, Thaksin bị lật đổ và chịu kiếp lưu vong ở nước ngoài.

Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 8.

Đọc tiếp:

Nhận xét