Soros: Sát thủ tài chính của Ngân hàng quốc tế
Lâu này,
báo chí khắp nới trên thế giới thường khắc họa hình tượng của Soros như một
"hiệp sĩ độc hành", một người hùng tung hoành tự do giữa chốn giang hồ
hoặc một "thiên tài tài chính" có cách nghĩ và hành động độc lập. Những
câu chuyện truyền miệng liên quan đến Soros càng khiến cho hình tượng của ông
thêm phần huyền bí. Grumman đã từng đùa rằng, nếu đọc ngược lại thì cái tên
SOROS quả thật chẳng giống ai.
Vậy có thật
Soros là người luôn hành động độc lập, chỉ cần dựa vào linh cảm của mình cũng đủ
để khiêu khích Ngân hàng Anh, làm rung chuyển đồng mác Đức và khuynh đảo thị
trường tài chính châu Á?
Có lẽ chỉ
những người có đầu óc đơn giản mới tin vào những câu chuyện truyền kỳ như vậy.
Quỹ tiền tệ
lượng tử khuynh đảo thị trường tài chính thế giới do Soros sáng lập ra được
đăng ký ở Curacao, nơi được xem là thiên đường trốn thuế ở quần đảo Andreas –
thuộc địa của Hà Lan trên biển. Nhờ đó, ông ta có thể che dấu được tên tuổi nhà
đầu tư chủ lực cũng như tình hình làm ăn hay nguồn tiền vốn của Quỹ này. Curacao
còn được coi là trung tâm rửa tiền lớn nhất trên thế giới.
Theo quy định
của luật chứng khoán Mỹ, số lượng nhà đầu tư thời lưu (Sophisticate Investors)
của Quỹ phòng chống rủi ro (Hedge Fund) không được vượt quá 99 người Mỹ. Soros
đã hao tâm tổn huyết đảm bảo trong số 99 nhà giàu siêu cấp này không có người Mỹ
nào. Vì Quỹ đối xung cách xa đất liền như vậy, nên thậm chí Soros không nằm
trong số các thành viên của Hội đồng quản trị mà chỉ tham gia vào việc vận hành
quỹ với tư cách là cố vấn đầu tư. Không chỉ vậy, ông ta còn dùng danh nghĩa của
Công ty quản lý quỹ Soros (Soros Fund Management) do bản thân sáng lập nên ở
New York để đảm đương chức vụ cố vấn này. Nếu Chính phủ Mỹ yêu cầu cung cấp chi
tiết về tình hình hoạt động của Quỹ này, ông ta có thể nói rằng bản thân mình
chỉ là một cố vấn đầu tư để thoái thác trách nhiệm.
Quỹ Quanta
Fund của Soros bao gồm:
Richard
Katz – Giám đốc
Ngân hàng Rothschild Longdon và là Chủ tịch Ngân hàng Rothschild Italia Milan.
Nils
Taube - Giám đốc
kiêm cổ đông của St. James Place Capital thuộc Tập đoàn ngân hàng London, một
thành viên của dòng họ Rothschild.
William
Lord Ress-Mogg - Giám
đốc, bình luận viên của tờ London Times, đồng thời là cổ đông của St. James
Place Capital trực thuộc dòng họ Rothschild.
Edgar de
Picciotto – nhân vật
gây nhiều tranh cãi nhất trong số các ngân hàng tư nhân của Thụy Sĩ, người được
coi là "nhà tài phiệt ngân hàng thông minh nhất Genève".
Tháp tùng
Picciotto còn có Edmund Safra – ông chủ Republic Bank of New York, từng
bị cơ quan chức năng Mỹ xác nhận có liên quan đến tập đoàn tội phạm của Ngân
hàng Matxcơva và bị Thụy Sĩ cáo buộc là có liên quan đến các hoạt động rửa tiền
của Thổ Nhĩ Kỳ và Columbia.
Trong
"nhóm" của Soros còn có Marc Rich – một thương gia nổi tiếng đến
từ Thụy Sĩ cùng Shaul Eisenberg – nhà buôn vũ khí nổi tiếng người Israel.
Mối quan hệ
bí mật giữa Soros với Rothschild khiến cho ông trở thành "con tốt tiên
phong" của tập đoàn tài chính hùng mạnh nhất và bí mật nhất trên thế giới
này. Dòng họ Rothschild không chỉ đóng vai trò bá chủ thành phố tài chính
London, cha đẻ của mạng lưới tình báo quốc tế, hậu đài của năm ngân hàng lớn nhất
phố Wall, dòng họ định đoạt giá vàng thế giới, mà còn giữ vai trò chi phối chủ
yếu mọi hoạt động của trục tài chính London – phố Wall hiện nay. Chẳng ai biết
dòng họ này có bao nhiêu tài sản, nhưng khi nhà Rothschild và các nhà tài phiệt
Ngân hàng quốc tế đánh tiếng cho dư luận thế giới tập trung vào những nhân vật
giàu có nhất thế giới như Bill Gates hay ông trùm cổ phiếu Warren Buffett, khối
tài sản khổng lồ của họ - nhiều hơn cả những nhà giàu nhất hành tinh – đang nằm
yên trong tài khoản ngoài khơi Thụy Sĩ hoặc biển Caribe sẽ đợi thời mà động đậy.
Mối quan hệ
của Soros với những bậc tinh anh của Mỹ cũng rất khác thường. Ông ta đã đầu tư
vào tập đoàn Carlyle Group để buôn bán vũ khí. Cổ đông của tập đoàn này bao gồm
các nhân vật tên tuổi như Bush-cha, James Beck – cực Bộ trưởng Tài chính Mỹ. Đầu
những năm 80, Soros đã cùng với một số chính trị gia của Mỹ như cựu Bộ trưởng
Ngoại giao Brezinski hay Madeleine Albright để lập ra Quỹ hỗ trợ dân chủ quốc
gia (National Endowment for Democracy). Tổ chức này trên thực tế được cục tình
báo trung ương (CIA) và tư nhân hợp vốn lập nên.
Thông qua sự
huấn luyện của các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế, ngay từ những năm 90, Soros
đã gây ra nhiều bão táp trên thị trường tài chính thế giới. Mỗi một hành động mạnh
tay của Soros đều thể hiện ý đồ chiến lược trọng đại của các nhà Ngân hàng quốc
tế với mục tiêu là thúc đẩy khả năng "giải thể có kiểm soát" đối với
nền kinh tế của các nước nhằm từng bước hoàn thành công tác chuẩn bị cho sự ra
đời của hệ thống "Chính phủ thế giới" và "tiền tệ thế giới"
dưới sự khống chế của trục tài chính London – phố Wall.
Đầu những
năm 80, các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế về cơ bản đã thực hiện được việc
"giải thể một cách có kiểm soát" đối với nền kinh tế của các quốc gia
thuộc châu Mỹ Latinh và các nước phát triển ở Bắc Mỹ. Cuối thập niên 80, họ lại
tiếp tục khống chế thành công nền tài chính Nhật Bản. Sau đó, họ lại quay hướng
về châu Âu – khu vực trọng điểm cần khống chế - với mục tiêu phá hoại nền kinh
tế của các nước Đông Âu và Liên Xô.
Soros là
người gánh vác sứ mệnh quan trọng này và đóng vai một nhà từ thiện. Ông ta lập
ra rất nhiều quỹ hỗ trợ ở Đông Âu và Liên Xô. Các quỹ này được Soros thành lập
dựa theo mô hình của "hiệp hội giải phóng xã hội" mà ông ta khởi xướng
ở New York với việc đề cao những khái niệm tự do cá nhân. Chẳng hạn, trường Đại
học Trung Âu (Central European University) do Soros hỗ trợ đã luôn tìm cách
xuyên tạc và nhồi nhét vào đầu thanh niên đang sống trong chế độ xã hội chủ
nghĩa rằng, những khái niệm như quốc gia chủ quyền là sản phẩm của thế lực tàn
ác và phản "chủ nghĩa cá nhân", rằng chủ nghĩa tự do kinh tế là liều
thuốc thần diệu, mọi sự phân tích lý tính đối với hiện tượng xã hội đều là sản
phẩm của "chủ nghĩa chuyên chế". Các chủ đề chính được giảng dạy
trong trường học này thường mang những nội dung kiểu như "cá nhân và chính
phủ". Đương nhiên, những tư tưởng này đã nhận được sự tán đồng cao độ của
Hiệp hội Ngoại giao Mỹ.
Gillesd'Aymery
– nhà phê bình nổi tiếng của Mỹ - đã miêu tả một cách chính xác bộ mặt thực sự
của Soros cũng như ý đồ thực sự của các tổ chức quốc tế do những kẻ như họ
"vô tư" tài trợ: "Đằng sau chiếc mặt nạ hợp pháp và chủ nghĩa
nhân đạo, người ta có thể phát hiện ra một nhóm những "nhà từ thiện"
vô cùng giàu có và những tổ chức do họ tài trợ như "Hiệp hội mở cửa xã hội",
Quỹ Ford, Hiệp hội hòa bình Mỹ, Quỹ hỗ trợ dân chủ Mỹ, Tổ chức quan sát nhân
quyền, Tổ chức ân xá quốc tế, Tổ chức rủi ro thế giới. Trong số những người
này, Soros là kẻ nổi bậc nhất. Ông ta giống như một con bạch tuộc khổng lồ vươn
những xúc tu dài đến tận Đông Âu, Đông Nam Âu, vùng Ovcharka và các nước cộng
hòa thuộc Liên Xô cũ. Dưới sự phối hợp của nhũng tổ chức này, Soros không những
có thể nhào nặn mà còn tạo nên những thông tin mới, chương trình nghị sự chung
và quan điểm chung nhằm khống chế thế giới và tài nguyên, thôi thúc lý tưởng về
một thế giới thống nhất hoàn mỹ do Mỹ tạo nên".
Trong quá
trình giải thể của các quốc gia xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Soros đã đóng vai trò
hết sức quan trọng, có thể nói là không thể cân đo đong đếm được. Ở Ba Lan,
Soros đã có công lớn trong việc giúp Công đoàn Đoàn kết Ba Lan giành chính quyền
quốc gia, có sức ảnh hưởng trực tiếp đối với ba vị Tổng thống đầu tiên của nước
Ba Lan mới.
Soros đã
cùng Paul Volcker – cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Anno Ruding – Phó Chủ
tịch Ngân hàng Hoa Kỳ, Jeffrey Sachs – Giáo sư Đại học Harvard, bào chế nên
"liệu pháp sốc" khiến cho Đông Âu và Liên Xô đồng loạt toi mạng. Chính
Soros đã tổng kết liệu pháp này như sau: "Tôi nghĩ cần phải tạo nên một sự
thay đổi về thể chế chính trị để dẫn đến sự cải thiện về kinh tế. Ba Lan chính
là nơi có thể thử nghiệm được. Tôi đã chuẩn bị một số phương sách cải cách kinh
tế rộng khắp, bao gồm ba phần: giám sát tiền tệ, điều chỉnh kết cấu và tổ chức
lại các khoản nợ. Tôi cho rằng, muốn hoàn thành đồng thời ba mục tiêu này thì cần
phải thực hiện tốt từng mục tiêu một. Tôi chủ trương một kiểu hoán đổi nợ với cổ
phần ở tầm kinh tế vĩ mô".
Việc điều
chỉnh kết cấu nền sản xuất cũng giống như việc tiến hành phẫu thuật toàn diện
trật tự kinh tế vĩ mô, đồng thời lại khư khư kiểm soát gắt gao nguồn cung ứng
tiền tệ. Điều này chẳng khác nào việc bác sĩ phẫu thuật cho bệnh nhân nhưng lại
từ chối tiếp máu cho họ vậy, và kết cục đương nhiên là nền kinh tế bị sụp đổ
hoàn toàn, nền sản xuất suy thoái nghiêm trọng, mức sống của người dân tụt dốc
không phanh, các nhà máy công nghiệp đóng cửa hàng loạt, công nhân thất nghiệp,
sự bất ổn xã hội tăng lên. Lúc này, các Ngân hàng quốc tế đem "nợ đổi cổ
phiếu" bán đổ bán tháo ra thị trường và ung dung thu mua những tài sản
chính yếu của những quốc gia này.
Ba Lan,
Hungari, Liên bang Nga, Ukraine lần lượt bị cho "lên thớt", đến mức nền
kinh tế của những quốc gia này 20 năm sau vẫn không thể khôi phục hoàn toàn. Điều
khác biệt giữa tình hình của các quốc gia Đông Âu so với các quốc gia nhỏ yếu
không có sức phản kháng ở châu Phi và châu Mỹ Latinh chính là: Liên Xô và Đông
Âu đều là các quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh đến mức khiến Mỹ không thể ngủ
yên, vậy mà đành phải bất lực trước cảnh đất nước bị cướp bóc một cách điên cuồng
có tổ chức. Điều này quả thực là hiện tượng có một không hai trong lịch sử nhân
loại.
Kiểu giết
người không dao của Soros quả thực là điểm đặc biệt của ông ta. Xem ra, để tiêu
diệt một quốc gia thì cách làm hiệu quả nhất chính là phải làm sao cho dân
chúng ở quốc gia đó trở nên mất niềm tin vào Chính phủ hay các nhà lãnh đạo đất
nước.
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 8.
Đọc thêm:
Nhận xét
Đăng nhận xét