Đồng đô-la vay mượn được "biến hóa" như thế nào?
Ngân hàng
New York của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ miêu tả đồng đô-la như thế này: "Đồng
đô-là không thể hoán đổi thành vàng hay bất cứ tài sản nào khác của Bộ Tài
chính. Nó không mang ý nghĩa thực tế mà chỉ có tác dụng ghi nợ… Ngân hàng chỉ tạo
ra tiền khi được người đi vay cam kết hoàn các khoản vay của ngân hàng. Ngân
hàng thông qua "tiền tệ hóa" các khoản nợ thương mại và tư nhân để tạo
ra tiền".
Sự giải
thích của Ngân hàng Chicago thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là: "Ở Mỹ, bất
luận tiền giấy hay là tài khoản ngân hàng đều không có đủ giá trị nội tại như một
loại hàng hóa. Đồng đô-la Mỹ chẳng qua chỉ là một tờ giấy. Còn tài khoản ngân
hàng cũng chỉ là những con số ước lượng ghi trên giấy. Tiền kim loại tuy có một
giá trị nội tại nhất định, nhưng lại thường thấp hơn nhiều so với mệnh giá của
chúng".
Vậy rốt cuộc,
điều gì đã khiến cho những công cụ tiền tệ như ngân phiếu, tiền giấy, tiền đúc
kim loại được người ta tiếp nhận theo đúng mệnh giá của chúng trong việc hoàn nợ
cũng như các công cụ thanh toán khác? Câu trả lời là lòng tin của con người.
Người ta tin rằng bất cứ lúc nào, họ có thể dùng những loại tiền tệ này để hoán
đổi thành tài sản khác. Một phần nguyên do trong vấn đề này là Chính phủ đã sử
dụng pháp luật để ban hành các quy định nên các loại tiền pháp định bắt buộc phải
được tiếp nhận.
Nói cách
khác, việc tiền tệ hóa dịch vụ cho vay đã tạo ra đồng đô-la, còn mệnh giá của đồng
đô-la lại phải do một ngoại lực tác động cưỡng chế. Vậy làm thế nào mà dịch vụ
cho vay nợ lại biến thành đô-la được? Nếu muốn hiểu rõ quá trình này, chúng ta
cần dùng đến "kính hiển vi" để quan sát tỉ mỉ cơ chế vận hành hệ thống
tiền tệ của Mỹ.
Các độc giả
không có chuyên môn về tài chính có lẽ cần phải đọc kỹ nội dung dưới đây mới có
thể hiểu được quy trình tạo ra tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và hệ thống
ngân hàng. Đây là một bí mật thương mại quan trọng nhất của ngành tái chính
phương Tây.
Do Chính phủ
Mỹ không có quyền phát hành tiền tệ mà chỉ có quyền phát hành công trái, sau đó
đem công trái nộp cho Cục Dự trữ Liên bang làm vật thế chấp để có thể phát hành
tiền tệ thông qua Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và hệ thống ngân hàng thương mại mà
ngọn nguồn của đồng đô-la Mỹ nằm ở công trái.
Bước thứ nhất,
Quốc hội phê chuẩn quy mô phát hành công trái, Bộ Tài chính sẽ thiết kế công
trái thành nhiều loại khác nhau, trong đó loại có kỳ hạn một năm thì gọi là
T-Bills (Treasury Bills), loại có kỳ hạn từ 2 – 10 năm thì gọi là T-Notes, còn
loại có kỳ hạn 30 năm gọi là T-Bonds. Những công trái này có mức lãi suất khác
nhau và thời hạn khác nhau, được tiến hành phát mãi công khai trên thị trường.
Cuối cùng, Bộ Tài chính sẽ đem toàn bộ số công trái không phát mãi được trong
giao dịch chuyển qua Cục Dự trữ Liên bang, và Cục Dự trữ Liên bang sẽ thu vào
toàn bộ. Trên sổ sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, những công trái này sẽ được
ghi vào mục "Tài sản chứng khoán" (Securities Asset).
Do Chính phủ
Mỹ dùng tiền thu thuế trong tương lai làm thế chấp công trái nên công trái của
nước này được coi là "tài sản đáng tin cậy nhất" trên thế giới. Ngay
sau khi thu được khoản tài sản này, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể sử dụng nó để
tạo ra một dạng tiền nợ (Liability) được gọi là "chi Phiếu Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ".
Đây là bước
quan trọng trong quá trình "biến không thành có". Tuy nhiên, loại chi
phiếu này của Cục Dự trữ Liên bang chẳng có bất cứ loại tiền nào có thể đảm bảo.
Đây là một bước được thiết kế hết sức tinh vi dưới sự ngụy trang khéo léo. Sự tồn
tại của loại chi phiếu này khiến cho Chính phủ càng dễ khống chế cán cân cung cầu
khi phát mãi công trái. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ thu lãi từ khoản tiền cho Chính
phủ vay, còn Chính phủ thì nhận tiền một cách hợp pháp mà không để lộ ra dấu vết
trong việc ấn hành một lượng lớn tiền giấy. Rõ ràng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã
tay không mà bắt được giặc, mọi con số trong sổ sách kế toán hoàn toàn cân đối,
tài sản công trái cân bằng với số nợ. Toàn bộ hệ thống ngân hàng được bao bọc một
cách khéo léo trong lớp vỏ ngụy trang này.
Chính bước
đi đơn giản mà tối quan trọng này đã tạo nên sự mất công bằng lớn nhất trên thế
giới. Số tiền đóng thuế trong tương lai của người dân đã được Chính phủ thế chấp
cho ngân hàng tư nhân với mục đích vay đô-la. Và cũng bởi phải vay của ngân
hàng tư nhân, nên Chính phủ phải chịu một mức lãi suất lớn. Sự bất công ấy thể
hiện ở chỗ:
Thứ nhất,
không nên đem khoản tiền đóng thuế trong tương lai của người dân đi thế chấp, bởi
khoản tiền đó vẫn còn chưa được kiếm ra trên thực tế. Điều đó cũng có nghĩa rằng,
việc thế chấp cả tương lai sẽ khiến cho sức mua của tiền tệ trở nên giảm giá trị,
từ đó phương hại đến tích lũy của người dân.
Thứ hai, thuế
thu được trong tương lai của dân càng không nên thế chấp cho ngân hàng trung
ương tư hữu. Việc các nhà tài phiệt ngân hàng hầu như không phải bỏ tiền ra mà
bỗng dưng lại được hứa hẹn bảo đảm bằng tiền nộp thuế trong tương lai của người
dân quả là một chiến thuật "tay không bắt giặc" điển hình.
Thứ ba, vì
mắc nợ ngân hàng với một khoản lợi tức khổng lồ nên Chính phủ buộc phải dựa vào
nguồn thu thuế của người dân. Như vậy, điều này cuối cùng trở thành gánh nặng của
người dân. Người dân không chỉ bị thuế chấp tương lai của mình một cách vô thức
mà còn phải đóng thuế thật nhanh để Chính phủ còn có tiền trả lãi cho ngân hàng
trung ương tư hữu. Lượng phát hành đồng đô-la Mỹ càng lớn thì mọi thứ thuế má
càng đè nặng lên vai người dân, và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tồn tại đời đời kiếp
kiếp.
Bước thứ
hai, ngay sau khi Chính phủ liên bang nhận được "chi phiếu của Cục Dữ trữ
Liên bang Mỹ" cùng với chữ ký và con dấu đóng phía sau, tấm chi phiếu thần
kỳ này lại được gửi vào ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và biến thành khoản
"tiết kiệm Chính phủ" (Government Deposits) và hiện diện trên tài khoản
của Chính phủ ở Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Bước thứ
ba, ngay khi Chính phủ bắt đầu tiêu tiên, các chi phiếu Chính phủ sẽ tạo nên đợt
sóng tiền tệ thứ nhất vỗ vào nền kinh tế. Các công ty và cá nhân nhận những chi
phiếu này sẽ đua nhau đem gửi chúng vào tài khoản của họ tại ngân hàng thương mại
và số phiếu đó sẽ trở thành khoản tiết kiệm ngân hàng thương mại (Commercial
Bank Deposits). Lúc này, chúng thể hiện vai trò kép của mình. Một mặt chúng là
tiền gửi vào ngân hàng, và bởi vì những khoản tiền này thuộc quyền sở hữu của
người gửi nên sớm muộn cũng phải trả lãi cho họ. Nhưng mặt khác, những chi phiếu
này lại cấu thành "vốn" của ngân hàng nên ngân hàng có thể sử dụng để
cho vay. Tất cả mọi thứ trên sổ sách kế toán đều vẫn cân bằng. Thế nhưng, ngân
hàng thương mại lại dựa vào công cụ hữu hiệu là nguồn dự trữ cục bộ để bắt đầu
công việc "sáng tạo" ra tiền tệ.
Bước thứ
tư, trên sổ sách của ngân hàng, tiền tiết kiệm tại ngân hàng thương mại được
tái phân loại thành "dự trữ ngân hàng" (Bank Reserves). Lúc này, từ
tài sản thông thường của ngân hàng, loại tiết kiệm này đã trở thành nguồn dự trữ
có khả năng tạo ra đồng tiền mới. Theo hệ thống dự trữ cục bộ, Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ cho phép ngân hàng thương mại được trích 10% tiền ký gửi làm Quỹ dự trữ
(thông thường, ngân hàng Mỹ chỉ giữ lại một khoản tiền mặt tương đương 1 – 2% tổng
số tiền gửi, một khoản ngân phiếu tương đương 8 – 9% tổng kim ngạch tiết kiệm
trong kho tiền tệ của mình để làm Quỹ dự trữ và cho vay 90% khoản tiết kiệm còn
lại). Như vậy, 90% khoản tiết kiệm này sẽ được các ngân hàng sử dụng để phát
hành tín dụng.
Tuy nhiên,
có một vấn đề phát sinh là, ngay sau khi 90% số tiền ký gửi này được sử dụng để
cho người khác vay, nếu người gửi muốn rút tiền thì phải làm thế nào?
Thực ra,
khi việc cho vay xảy ra, số tiền cho vay này không còn là những khoản tiền gửi
ban đầu mà đã trở thành một khoản tiền mới được sinh ra từ quá trình "biến
không thành có". Số tiền mới này khiến cho tổng số tiền mà ngân hàng nắm
giữ lập tức tăng lên 90% so với tiền cũ. Điểm khác biệt so với tiền cũ nằm ở chỗ,
tiền mới có thể đem lại nguồn lợi tức cho ngân hàng. Đây chính là làn sóng tiền
tệ thứ hai xô vào nền kinh tế. Ngay khi làn sóng tiền tệ thứ hai kéo ngược về
ngân hàng thương mại thì tiền mới lại sinh ra nhiều đợt sóng tiếp sau nữa với hạn
ngạch giảm dần.
Ngay khi đợt
sóng thứ hai mươi mấy kết thúc, dưới sự vận hành nhịp nhàng giữa Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ và ngân hàng thương mại, cứ một đô-la công trái có thể tạo ra mười
đô-la Mỹ trong lưu thông. Nếu lượng phát hành công trái cũng như lượng tiền được
tăng thêm từ các đợt sóng tiền tệ vượt quá nhu cầu tăng trưởng kinh tế thì sức
mua của đồng tiền cũ sẽ giảm xuống và đây chính là nguyên nhân cơ bản tạo ra nạn
lạm phát tiền tệ. Từ năm 2001 đến năm 2006, khi Mỹ phát hành thêm 3.000 tỉ
đô-la Mỹ công trái, một phần tương đối lớn trong số đó được trực tiếp lưu
thông. Thêm vào đó, việc Chính phủ thu hồi và chi trả lợi tức công trái của nhiều
năm trước đã khiến cho đồng đô-la sụt giá thảm hại, trong khi giá nhiều loại
nhu yếu phẩm, bất động sản, dầu lửa, giáo dục, y tế, bảo hiểm lại luôn tăng
lên.
Tuy nhiên,
đại đa số công trái phát hành thêm hoàn toàn không được trực tiếp nhập vào hệ
thống ngân hàng mà được các ngân hàng trung ương nước ngoài, các tổ chức phi
tài chính của Mỹ hoặc các cá nhân mua vào. Trong tình huống này, do người mua
trả bằng đồng đô-la thực của mình nên đô-la mới hoàn toàn không được tạo ra. Chỉ
khi nào Cục Dự trữ Liên bang và bộ máy ngân hàng của Mỹ mua công trái thì đồng
đô-la mới được sản sinh ra. Đây chính là nguyên nhân để nước Mỹ có thể tạm thời
khống chế nạn lạm phát tiền tệ. Nhưng số công trái được nắm giữ bởi các ngân
hàng nước ngoài sớm muộn gì cũng sẽ đến lúc đáo hạn. Thêm vào đó, lãi suất cũng
cần phải được hoàn trả nửa năm một kỳ (công trái kỳ hạn 30 năm). Lúc này, Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ sẽ phải tạo ra đồng đô-la mới một cách bất khả kháng.
Xét về bản
chất, chế độ dự trữ vàng cục bộ kết hợp với hệ thống tiền tệ vay mượn chính là
thủ phạm của nạn lạm phát tiền tệ dài hạn. Dưới chế độ bản vị vàng, kết quả tất
yếu là lượng phát hành chứng chỉ ngân hàng dần dần vượt quá lượng dự trữ vàng
và khiến cho bản vị vàng tất nhiên phải giải thể. Trong khuôn khổ Hiệp ước
Bretton Woods, khả năng sụp đổ của hệ thống hối đoái vàng hoàn toàn là có thể. Còn
ở chế độ tiền tệ pháp định thuần túy, không thể tránh khỏi nạn lạm phát ác
tính, cuối cùng sẽ dẫn đến suy thoái nghiêm trọng trên phạm vi toàn thế giới.
Dưới sự chi
phối của nguồn tiền tệ vay mượn, nước Mỹ sẽ mãi mãi không thể hoàn trả hết nợ
quốc gia, nợ công ty và nợ tư nhân, bởi vì ngày nước Mỹ hoàn trả hết nợ cũng sẽ
chính là ngày đồng đô-la biến mất. Tổng nợ của Mỹ chẳng những sẽ không giảm xuống
mà còn sẽ giống như "hiệu ứng tuyết lăn", tổng lượng nợ của Mỹ sẽ
không ngừng tăng lên theo nhu cầu tăng trưởng tự nhiên của nền kinh tế, đồng thời,
tốc độ tăng nợ cũng diễn ra ngày một nhanh hơn.
Công trái Mỹ những năm 1940 - 2005 |
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 9.
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét