Đánh chặn "vòng cung khủng hoảng" của tiền tệ châu Âu
Sau khi đạt
được mục tiêu chiến lược "giải thể có kiểm soát" ở Đông Âu và Liên
Xô, các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế tiếp tục nhắm vào Đức và Pháp. Hai quốc
gia này đóng vai trò chủ chốt ở cựu lục địa châu Âu nhưng lại bị gạt ra khỏi địa
vị quyền lực vốn có nên tỏ ra không cam phận. Không còn chịu ảnh hưởng của Liên
Xô hùng mạnh trước kia, các nước này ngay lập tức tính chuyện tạo ra đồng tiền
chung châu Âu, qua đó muốn tạo nên sự khác biệt với các thế lực tài chính Anh –
Mỹ. Đồng tiền chung châu Âu một khi ra đời chắc chắn sẽ đánh động địa vị bá quyền
của đồng đô-la Mỹ. Xung đột tiền tệ giữa trục London – phố Wall với đồng minh Đức
– Pháp sẽ ngày càng quyết liệt.
Nguồn cơn của
vấn đề chính là sự giải thể của Hiệp ước Bretton Woods vào năm 1971 – hiệp ước
đã gây ra sự hỗn loạn nghiêm trọng của hệ thống tiền tệ thế giới. Trong khuôn
khổ của hiệp ước Bretton Woods với chế độ bản vị gián tiếp vàng, tỉ suất hối
đoái tiền tệ của các quốc gia chủ yếu trên thế giới hầu như được giữ ở mức ổn định
cao độ, nền thương mại và tài chính của các nước cũng khá cân bằng. Bởi các quốc
gia bội chi tất yếu sẽ phải mất đi những nguồn tài sản chính yếu của quốc gia
cho nên khả năng tín dụng của hệ thống ngân hàng các nước này sẽ suy giảm. Vì
thế mà các quốc gia phải ban hành chính sách siết chặt tiền tệ nhằm ngăn chặn
những hậu quả xấu khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Lúc này, nhu cầu
tiêu dùng tất nhiên sẽ phải giảm, và như vậy, nhu cầu nhập khẩu cũng phải giảm
theo, kết quả là thâm hụt thương mại chấm dứt. Khi người dân bắt đầu tích lũy
thì tư bản ngân hàng cũng bắt đầu gia tăng, quy mô sản xuất được mở rộng, hiện
tượng xuất siêu manh nha, tổng tài sản xã hội tăng. Hệ thống khống chế ưu việt
này đã được chứng nghiệm nhiều lần qua thực tiễn xã hội từ năm 1971 trở về trước,
khi gốc rễ của việc thâm hụt mậu dịch không đất bám trụ, đối xung rủi ro tiền tệ
là điều không cần thiết, công cụ phái sinh tài chính có điều kiện để tồn tại. Trong
khuôn khổ tiền tệ theo bản vị vàng, mọi quốc gia đều phải làm việc một cách
chăm chỉ và khắc khổ để tích lũy của cải, và đây cũng chính là nguyên nhân căn
bản khiến cho các nhà Ngân hàng quốc tế ghét vàng.
Khi không
được bảo đảm bằng vàng, hệ thống tiền tệ quốc tế trở nên hỗn loạn. Nhờ nhu cầu
đối với đồng đô-la Mỹ từ sau "khủng hoảng dầu mỏ" nhân tạo cộng với
chính sách lãi suất cao của Chính phủ Mỹ bắt đầu từ năm 1979, đồng đô-la Mỹ mới
dần dần lấy lại được vị thế của mình. Đồng đô-la Mỹ được xem là đồng tiền tích
lũy của các nước trên thế giới nhưng giá trị của nó lại lên xuống thất thường.
Trong khi quyền thao túng đồng tiền này lại hoàn toàn nằm trong tay trục London
– phố Wall, các quốc gia châu Âu bị ép buộc phải chịu cảnh qua sông lụy đò cảm
thấy trong lòng hết sức cay đắng. Vì vậy, cuối thập niên 70, Helmut Schmidt – Bộ
trưởng Tài chính Đức đã tìm đến Giscard d'Estaing – Tổng thống Pháp – để thương
lượng về việc xây dựng một hệ thống tiền tệ châu Âu (European Monetary System)
nhằm giải quyết vấn đề bất ổn hối đoái trong mậu dịch giữa các nước châu Âu – vấn
đề đang khiến người ta đau đầu bấy lâu nay.
Năm 1979, hệ
thống tiền tệ châu Âu bắt đầu chuyển động và đem lại hiệu quả rất tốt. Các quốc
gia châu Âu chưa gia nhập hệ thống này thì nô nức bày tỏ hứng thú muốn tham gia
vào hệ thống này. Mối lo lắng rằng trong tương lai, hệ thống này có thể biến
thành chế độ tiền tệ thống nhất của châu Âu bắt đầu tác động một cách mạnh mẽ đến
những nhân vật cốt cán của trục London – phố Wall.
Điều đó khiến
cho người ta bất an hơn là bắt đầu từ năm 1977, Đức và Pháp đã bắt đầu nhúng
tay vào vụ OPEC. Họ lên kế hoạch cung cấp những sản phẩm kỹ thuật cao cho các
nước xuất khẩu dầu mỏ và giúp các nước này thực hiện công cuộc công nghiệp hóa,
xem như đó là điều kiện trao đổi. Các quốc gia Ả Rập đảm bảo nguồn cung ứng dầu
mỏ ổn định trong thời gian dài cho các nước Tây Âu đồng thời đem các khoản thu
từ xuất khẩu dầu mỏ sang châu Âu gửi vào hệ thống ngân hàng của châu lục này.
Ngay từ đầu, Anh đã kiên quyết phản đối kế hoạch xây dựng hệ thống tiền tệ mới
của Đức và Pháp. Sau khi mọi nổ lực ngăn cản đều bị thất bại, họ đã từ chối
tham gia vào hệ thống tiền tệ này.
Nước Đức thời
đó còn có một mưu đồ lớn hơn nữa – hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước để
trở thành quốc gia hùng mạnh chủ đạo của châu Âu. Vì mục đích này, Đức đã chủ động
xích lại gần Liên Xô, duy trì mối quan hệ hợp tác nồng ấm và đôi bên cùng có lợi
với nước này.
Để đối phó
với ý đồ của Đức – Pháp, các chiến lược gia của London – phố Wall đã đề ra lý
thuyết "vòng cung khủng hoảng". Vấn đề trọng tâm của lý thuyết này
chính là việc kích động các thế lực Hồi giáo cấp tiến ở Iran, gây nên những khu
vực bất ổn ở khu vực Trung đông vốn được xem là mỏ dầu của thế giới. Ảnh hưởng
của những hoạt động phá hoại này thậm chí còn có thể lan đến tận khu vực Hồi
giáo thuộc miền Nam Liên Xô. Kế hoạch này vừa tấn công vào viễn cảnh hợp tác tốt
đẹp giữa châu Âu và Trung Đông, vừa ngăn cản bước tiến của hệ thống tiền tệ
chung châu Âu, khống chế Liên Xô đồng thời chuẩn bị cho quân đội Mỹ xâm nhập
vào khu vực Vùng Vịnh sau này. Quả thực, "một mũi tên có thể giết chết ba
con nhạn".
Brezinski –
cố vấn an ninh quốc gia và Vance – Bộ trưởng Ngoại giao đã xử lý vụ sự việc rất
nhịp nhàng và hiệu quả. Tình thế ở Trung Đông đang trở nên rắc rối nghiêm trọng.
Năm 1979, cuộc cách mạnh ở Iran bùng phát, cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới lần
thứ hai nổ ra. Thực ra, về bản chất, thế giới chưa từng có chuyện thiếu hụt nguồn
cung dầu mỏ. Việc thiếu 3 triệu thùng dầu mỗi ngày do Iran cắt giảm sản lượng
hoàn toàn có thể thay thế bằng sản lượng dầu bổ sung của Ả Rập Saudi và Kuwait
dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Mỹ. Các trùm tài chính và dầu mỏ của London và
phố Wall đã thả nổi giá dầu với mục đích kích thích nhu cầu của thế giới đối với
đồng đô-la Mỹ. Các đại gia ngân hàng vừa thao túng nền công nghiệp sản xuất dầu,
vừa kiểm soát việc phát hành đồng đô-la Mỹ. Và một khi họ đã ra chiêu thì thế
giới làm sao tránh khỏi vòng kiềm tỏa!
Một trò
khác của Brezinski là chiêu đánh "con bài Trung Quốc". Tháng 12 năm
1978, nước Mỹ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, tán thành
việc quốc gia đất rộng người đông này gia nhập trở thành Liên Hợp Quốc. Liên Xô
lập tức cảm thấy xung quanh mình tứ phía đều có địch, phía Đông có khối Hiệp ước
Bắc Đại Tây Dương (NATO), phía Tây có Trung Quốc, phía Nam lại có "vòng
cung khủng hoảng". Liên Xô như chợt giật mình bừng tỉnh và cắt đứt ngay mối
quan hệ vốn dĩ mong manh với Đức.
Tháng 11
năm 1989, bức tường Berlin sụp đổ, khi người Đức ăn mừng sự thống nhất đất nước
thì phố Wall lại có một cảm nhận riêng. Các nhà kinh tế học Mỹ đã bình luận thế
này: "Quả thực, khi viết về lịch sử nền tài chính thập niên 90 của thế kỷ
20, các nhà phân tích có thể sẽ coi vụ sụp đổ bức tường Berlin kinh khủng hơn cả
cơn địa chấn tài chính Nhật Bản. Sự sụp đổ của bức tường này đồng nghĩa với việc
hàng trăm tỉ đô-la Mỹ sẽ chảy về phía Đông – khu vực mà hơn 60 năm nay chẳng
đóng vai trò gì trên thị trường tài chính thế giới".
Trong những
năm gần đây. Đức không phải là quốc gia đầu tư nước ngoài chủ yếu của Mỹ. Vai
trò này thuộc về Anh từ năm 1987 đến nay; tuy nhiên, điều mà người Mỹ không thể
quên là, nếu không có sự tích lũy lớn của Đức, nước Anh không thể tiến hành đầu
tư quy mô như vậy đối với Mỹ.
London cảm
nhận được điều này một cách rõ nét. Các chiến lược gia của bà Thatcher thậm chí
còn hô hoán rằng "Đức là đế quốc thứ tư". Vào ngày 22 tháng 7 năm
1990, tờ Sunday Times đã bình luận như thế này: "Chúng ta hãy giả sử
rằng sau khi thống nhất, Đức sẽ trở thành một người khổng lồ lương thiện, vậy
thì tình hình sẽ ra sao? Giả sử việc Đức thống nhất sẽ khiến cho nước Nga cũng
trở thành một người khổng lồ lương thiện, vậy thì tình hình sẽ thế nào? Trên thực
tế, sức ép từ sự lớn mạnh của nước Đức sẽ càng lớn hơn. Cho dù một nước Đức thống
nhất có quyết tâm tiến hành cạnh tranh theo quy tắc của chúng ta thì trên thế
giới này ai có thể ngăn cản hữu hiệu việc nước Đức đoạt lấy quyền bính của
chúng ta?".
Mùa hè năm
1990, Anh thành lập một cơ quan tình báo mới với mục tiêu tăng cường mở rộng hoạt
động tình báo với Đức. Chuyên gia tình báo của Anh đã cương quyết đề nghị đồng
minh Mỹ phải tuyển mộ nhân viên trong số các nhân viên tình báo cũ của Đông Đức
nhằm tạo nên mạng lưới tình báo Mỹ ở Đức.
Do tỏ ý cảm
kích đối với việc Liên bang Nga ủng hộ thống nhất nước Đức nên Đức đã quyết tâm
giúp đỡ Liên bang Nga xây dựng lại nền kinh tế đang kiệt quệ. Bộ trưởng Tài
chính Đức hình dung về một viễn cảnh tốt đẹp của châu Âu mới trong tương lai: một
con đường sắt hiện đại hóa nối liền Paris, Hannover, Berlin, Warsaw và
Mátxcơva; một hệ thống tiền tệ chung, nền kinh tế phồn vinh, hội nhập với nhau,
châu Âu cũng sẽ không còn lửa chiến tranh và múi thuốc súng nữa, tất cả các quốc
gia châu Âu chỉ có một tương lai đẹp như trong mộng ảo.
Tuy nhiên,
đối với các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế thì điều này không phải là mộng tưởng.
Điều mà họ quan tâm là làm thế nào để hạ gục đồng mác Đức, đánh bại ý tưởng về
đồng tiền chung châu Âu đang manh nha hình thành đồng thời cản trở công cuộc
tái thiết của nước Đức.
Đây là bối
cảnh khi Soros đánh chặn đồng bảng Anh và đồng lia Ý dưới sự sắp đặt của London
– phố Wall vào đầu thập niên 90.
Năm 1990,
Chính phủ Anh bất chấp sự phản đối của London, ngang nhiên gia nhập vào hệ thống
hối đoái tiền tệ châu Âu (ERM). Vì nhận thấy Hệ thống đồng tiền châu Âu đang dần
dần thành hình có thể trở thành mối họa tiềm ẩn cho trục tài chính London – phố
Wall, các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế đã lập kế hoạch để phá hoại hệ thống
tiền tệ non trẻ này.
Năm 1990, bức
tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất. Những khoản chi tiêu khổng lồ theo đó
mà kéo đến và trở thành điều không thể ngờ tới. Nhằm đối phó với áp lực lạm
phát tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Đức đành phải nâng cao lãi suất của đồng
mác. Cùng năm đó, Anh gia nhập Hệ thống hối đoái tiền tệ châu Âu (ERM) và cũng
gặp không ít khó khăn về kinh tế với tỉ lệ lạm phát cao gấp ba lần so với Đức,
lãi suất tăng đến 15%, nền kinh tế bong bóng những năm 80 đang cận kề nguy cơ nổ
tung.
Đến năm
1992, ở Ý và Anh xuất hiện hiện tượng thâm hụt mậu dịch song phương. Nhà đầu cơ
Soros đã nhắm trúng thời điểm để phát động cuộc tấn công vào thị trường tài
chính ngày 16 tháng 9 năm 1992, bán tháo cổ phiếu với tổng giá trị lên đến 10 tỉ
đô-la Mỹ. Đến 7 giờ tối, Anh tuyên bố đầu hàng, và Soros kiếm được 1,1 tỉ đô-la
Mỹ đồng thời hất văng đồng bảng Anh và đồng lia ra khỏi hệ thống hối đoái châu
Âu. Ngay sau đó, Soros tấn công vào đồng phờ-răng Pháp và mác Đức, tuy nhiên,
trong canh bạc trị giá 40 tỉ đô-la Mỹ lần này, đó không phải là điều dễ dàng đạt
được. Như vậy, có thể thấy rằng, các ông trùm tài chính hùng mạnh là những kẻ hỗ
trợ cho Soros trong cuộc tổng công kích vào hệ thống các đồng tiền châu Âu này.
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 8.
Đọc thêm:
Nhận xét
Đăng nhận xét