Chiến tranh tiền tệ không tuyên mà chiến - phần 3

Paul Warburg: Chủ trương “giải thể có kiểm soát” nền kinh tế thế giới

Warburg trúng cử chức Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ là bởi ông được phố Wall lựa chọn. Đây là sự định giá của họ. Điều mà ai cũng biết chính là ông ta rất thông minh và bảo thủ, nhưng điều mà chẳng ai biết chính là ông ta sắp tạo nên một cuộc thay đổi lớn.

Nhà sử học Charles R. Geisst

Năm 1973, vì muốn tăng cường mối quan hệ giữa giới tài chính của Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, với sự đề sướng và tư vấn của Brezinski đến D. Rockefeller – Chủ tịch Ngân hàng Chase Mahattan của Mỹ - đã thành lập một tổ chức gọi là Ủy ban Ba bên Mỹ, Âu, Nhật. Thành viên chủ yếu của Ủy ban này là một số đại gia ngân hàng, các doanh nghiệp tên tuổi và các chính trị gia nổi tiếng của Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản. Trụ sở của Ủy ban này được đặt ở ba nơi: New York, Paris và Tokyo, mỗi nơi có một vị Chủ tịch. Chủ tịch của trụ sở New York đương nhiên là D. Rockefeller, còn Brezinski – người được coi là tham mưu tâm phúc của D. Rockefeller – đảm nhận việc chủ trì mọi hoạt động thường ngày của trụ sở này. Brezinski có một người bạn thân là Giáo sư giảng dạy tại Đại học Columbia tên Dean Rusk – một công dân bang Georgia, đã từng giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Kennedy – Johnson. Ông đã đề nghị Brezinski mời Thống đốc bang Georgia là Carter tham gia vào Ủy ban Ba bên này, đồng thời còn ca ngợi đức tính quyết đoán và tầm nhìn chính trị của Carter.

Với sự giới thiệu nhiệt tình của Rusk, Brezinski đã hai lần gặp Carter. Vừa gặp nhau, Brezinski đã thấy “kết” ngay Carter đồng thời cho rằng, trong tương lai, nhất định Carter sẽ làm nên việc lớn. Vì thế, Brezinski rất muốn mời Carter về làm việc với mình, nhưng do đang đương chức cộng thêm danh tiếng khi đó mà Carter cảm thấy khó nhận thêm chức thành viên của Ủy ban Ba bên. Vậy là, Brezinski ra sức khen ngợi Carter và trực tiếp tiến cử Carter với D. Rockefeller. Chủ tịch Ủy ban chấp hành ba bên đã chấp nhận Carter. Chính nhờ vậy mà tên tuổi của Jimmy Carter – Thống đốc bang Georgia bé nhỏ - đã liệt vào danh sách các thành viên của Mỹ trong Ủy ban Ba bên. Đây là một bước ngoặt hết sức quan trọng đối với Carter để 5 năm sau ông ta đắc cử Tổng thống.

Sau khi Carter trở thành ông chủ Nhà Trắng vào năm 1977, Brezinski đương nhiên trở thành trợ lý an ninh quốc gia của Tổng thống Carter. Về bản chất thì Brezinski đã là "nhiếp chính" trong vai trò đại diện cho các Ngân hàng quốc tế, vai trò của ông ta cũng giống như Kissinger dưới thời Nixon.

Năm 1978, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ khuyết vị trí Chủ tịch – một vị trí mà các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế hết sức coi trọng. D. Rockefeller đã tiến cử Paul Warburg – một nhân vật thân tín của mình – với Carter cho chức vụ này. Tổng thống Carter không còn cách nào khác đã phải chấp nhận đề xuất đó.

Tờ New York Times đã đưa ra bình luận rằng: "Việc bổ nhiệm Warburg đã nhận được sự đồng tình của các ngân hàng châu Âu ở Bonn, Frankfurt và Thụy Sĩ". Phản ứng lại với thông tin này, thị trường cổ phiếu New York vốn đang trên đà tăng giá đã vọt lên thêm 9,73 điểm, trong chốc lát, đồng đô-la Mỹ cũng mạnh lên trông thấy trên thị trường quốc tế.

Kể từ khi Eugene Meyer từ chức ở Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào năm 1933 đến nay, các thành viên trong dòng họ Ngân hàng quốc tế đã rút lui khỏi tuyến đầu của thị trường tài chính và khống chế sự vận hành của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ bằng cách lựa chọn gắt gao những nhân vật quan trọng cho vị trí Giám đốc ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bàng. Warburg là một lựa chọn tối ưu của họ. Trước đó, Paul Warburg đã tốt nghiệp Đại học Princeton và Harvard, sau đó theo học khóa đào tạo chuyên sâu ở Học viện Kinh tế London (London School of Economics). Thập niên 50, ông làm việc tại ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ với tư cách là một nhà kinh tế học, sau đó làm việc cho Chase Mahattan Bank, đến thập niên 60 lại chuyển sang làm việc cho Bộ Tài chính đồng thời là một trong những nhân vật chính tham gia và thực thi tích cực chiến dịch phế bỏ bản vị vàng dưới thời Nixon. Năm 1974, ông bắt đầu đảm nhiệm vị trí Giám đốc Ngân hàng New York thuộc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của Cục Dự trữ Liên bang.

Ngày 9 tháng 11 năm 1978, trong một bài diễn thuyết tại Đại học Warwick, với khí thế phấn chấn, Warburg tiết lộ: "Việc "giải thể có thể kiểm soát" nền kinh tế thế giới ở một mức độ nào đó là một mục tiêu hợp lý của thập niên 80".

Vấn đề là giải thể ai và giải thể như thế nào?

Đối tượng của công cuộc giải thể này đương nhiên là các nước thuộc thế giới thứ ba đang nợ nần chồng chất, tiếp đến là Liên Xô và Đông Âu. Vừa mới lên nhậm chức, Warburg đã phất cao ngọn cờ công kích nạn "lạm phát tiền tệ trên phạm vi toàn thế giới", phối hợp chặt chẽ với đồng minh Anh khiến cho các khoản vay bằng đồng đô-la trở nên có giá đến nổi không gì sánh nổi. Lãi suất bình quân tăng từ 11,2% năm 1979 lên 20% năm 1981, lãi suất cơ bản cao hơn đến 21,5%, lãi suất công trái tăng vọt lên 17,3%.

Tháng 5 năm 1979, khi trở thành Thủ tướng Anh, Thatcher tuyên bố rằng "cần phải loại bỏ nạn lạm phát tiền tệ ra khỏi nền kinh tế".

Mới lên nắm quyền được một tháng, bà đã đưa mức lãi suất cơ bản từ 12% tăng lên 17% chỉ trong vòng 12 tuần, đẩy giá thành của các ngành nghề tăng cao đột biến lên 42% - một điều chưa từng xảy ra ở bất cứ nước nào trong số các quốc gia công nghiệp hóa thời kỳ hòa bình. Vì thế mà Thatcher đã được mệnh danh là người đàn bà thép".

Cái giá phải trả cho chính sách "chống lạm phát tiền tệ" là nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, người dân và giới thương nghiệp phải gánh chịu nỗi thống khổ, trong khi các nhà tài phiệt Anh – Mỹ lại kiếm được bộn tiền.

Các khẩu hiệu như cắt giảm chi tiêu Chính phủ, giảm thuế, xóa bỏ kiểm soát nghề nghiệp, đánh đổ lực lượng công đoàn… được xướng lên vang tận mây xanh. Các quốc gia đang phát triển ngày càng lâm vào cảnh nợ nần và đối mặt với nguy cơ khó có khả năng chi trả trầm trọng. Lúc này, nợ của các quốc gia đang phát triển tăng từ 130 tỉ đô-la Mỹ vào tháng 5 năm 1973 – thời điểm diễn ra hội nghị Bilderberg – lên mức 612 tỉ đô-la Mỹ vào năm 1982, nghĩa là gấp 5 lần. Trong khi Anh và Mỹ phất cao khẩu hiệu "chống lạm phát tiền tệ", đẩy lãi suất tăng cao đột ngột lên khoảng 20% thì mức lãi suất cắt cổ từ những khoản nợ kết xù đã khiến các quốc gia đang phát triển lâm vào cảnh "cá nằm trên thớt". Các nước Á, Phi, Mỹ Latinh vốn không hề có ý thức đề phòng cuộc chiến tranh tiền tệ đã phải trả giá đắt cho sự lơ là của mình.

Tại hội nghị Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 30 tháng 9 năm 1982, Schulz – Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã chỉ ra rằng, Quỹ Tiền tệ Quốc tế cần phải tăng cường đốc thúc việc trả nợ của các quốc gia đang phát triển. Ông kêu gọi các quốc gia này phải làm thế nào để khiến cho hàng hóa xuất khẩu của họ trở nên "hấp dẫn phương Tây hơn". Ông cũng cho rằng, việc tăng cường mức độ xuất khẩu tài nguyên có thể giúp các nước đẩy nhanh quá trình hoàn trả hết các khoản nợ của họ.

Lopez Portillo – Tổng thống Mê-hi-co – đã thẳng thắn vạch ra mưu đồ này khi cho rằng: "Sách lược của các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế Anh – Mỹ chính là việc sử dụng con dao hai lưỡi – lãi suất cao và giá cả nguyên vật liệu tăng cao – nhằm bóp nghẹt những thành tựu mà các quốc gia đang phát triển có được đồng thời làm mất khả năng tiến bộ của các quốc gia còn lại". Sâu xa hơn, ông yêu cầu các quốc gia đang phát triển cần phải ngừng ngay việc chi trả các khoản nợ bằng cách chỉ ra rằng: "Mê-hi-co và các nước thuộc thế giới thứ ba khác không thể hoàn trả nợ đúng hạn nếu cứ căn cứ vào những điều kiện sai lệch quá nhiều so với thực tế. Là những nước đang phát triển, chúng tôi không muốn phụ thuộc vào các nước phương Tây. Chúng tối không thể làm tê liệt nền kinh tế của nước mình hoặc khiến cho người dân rơi vào tình cảnh bi thảm hơn khi hoàn trả những khoản nợ này. Chi phí cho các khoản nợ này đã tăng lên ba lần rồi nhưng chúng tôi không hề được hỏi ý kiến, vì thế, chúng tôi không chịu trách nhiệm về vấn đề này. Chúng tôi đang nổ lực để giảm thiểu nạn đói nghèo, bệnh tật, thiếu hiểu biết, sự ỷ lại và những nỗ lực này không thể gây nên nguy cơ khủng hoảng quốc tế".

Điều đáng tiếc là Portillo đã buộc phải từ nhiệm sau hai tháng kể từ khi phát ngôn tại Đại hội đồng Liên hợp quốc. Người kế nhiệm Portillo là một nhân vật được các đại gia Ngân hàng quốc tế ủng hộ. Trong vai trò "cảnh sát duy trì trật tự cho vay", IMF đã buộc Mê-hi-co hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của mình. Engle đã miêu tả về khoản thời gian lịch sử này như sau: "Hành động ăn cướp có tổ chức với quy mô lớn nhất trong lịch sử hiện đại đã bắt đầu diễn ra. Quy mô của nó đã vượt qua những hoạt động tương tự trong thập niên 20. Nó tương phản hoàn toàn với tình hình mà giới truyền thông Tây Âu hoặc Mỹ cố tình che giấu. Các nước vay nợ đã hoàn trả xong nợ nần cho Sherlock của New York và London hiện đại. Sau tháng 8 năm 1982, các nước đang phát triển không những không trả nợ mà còn tỏ ra bất hợp tác. Nhưng trong tình cảnh bị IMF truy ép, họ đã buộc phải đặt bút ký vào một bản thỏa thuận với các nhà tài phiệt ngân hàng với tên gọi rất mỹ miều "Phương án giải quyết nợ"".

Việc cho vay của IMF chỉ được thực hiện sau khi nước vay nợ đặt bút ký vào một loạt các "điều khoản đặt biệt", bao gồm: cắt giảm chi tiêu Chính phủ, nâng cao thuế suất, giảm giá tiền tệ. Sau đó, nếu nợ lại bị kéo dài lần nữa, các quốc gia đang phát triển còn phải chi tiếp một khoản "phí dịch vụ" cho nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế, và được ghi vào trong tiền gốc của nợ vay.

Mê-hi-co buộc phải cắt giảm trợ cấp Chính phủ đối với dược phẩm, thực phẩm, chất đốt và các nhu yếu phẩm khác trong đời sống, đồng thời đồng pê-sô bị giảm giá xuống đến mức thảm hại. Đầu năm 1982, với hàng loạt biện pháp cải cách kinh tế của Tổng thống Portillo, tỉ giá đồng pê-sô đối với đô-la Mỹ là 12 pê-sô ăn 1 đô-la, còn đến năm 1989, tỉ giá pê-sô đối với đồng đô-la đã lên đến 2300:1, nền kinh tế Mê-hi-co trên thực tế đã bị các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế "giải thể có kiểm soát".

Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, từ năm 1980 đến năm 1986, tổng số tiền mà hơn một trăm quốc gia mắc nợ trên thế giới phải chi trả cho các nhà tài phiệt Ngân hàng thế giới là 658 tỉ đô-la, trong đó khoản lãi mà họ phải trả là 326 tỉ đô-là, còn tiền gốc là 332 tỉ đô-la. Đến năm 1987, khoản nợ mà 109 quốc gia cần phải trả cho các Ngân hàng quốc tế là 1300 tỉ đô-la. Với cách tính theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con kinh hoàng như vậy, rất có thể các quốc gia đang phát triển sẽ chẳng bao giờ hoàng trả hết khoản nợ này. Cho nên, các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế và IMF đã bắt đầu thực thi chính sách phá sản để thanh toán nợ đối với các quốc gia vay nợ. Các quốc gia chấp nhận "phương án giải quyết nợ vay" của các ông trùm ngân hàng bị ép phải bán đi các tài sản chủ chốt với giá rẻ như bèo, chẳng hạn hệ thống cung cấp nước, điện lực, khí thiên nhiên, đường sắt, điện thoại, dầu mỏ, ngân hàng.

Rốt cuộc thì mọi người cũng nhận ra được mức độ sát thương của kế hoạch "giải thể có kiểm soát" do các nhà tài phiệt Ngân hàng quốc tế hoạch định!

Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 8.

Đọc thêm:

Nhận xét