Sắc lệnh Tổng thống số
11110: giấy chứng tử của Kennedy
Đối với người
dân Mỹ, ngày 22 tháng 1 năm 1963 là một ngày không bình thường. Tổng thống
Kennedy bị ám sát tại thành phố Dallas bang Texas. Tin dữ loan đi, toàn nước Mỹ
rơi vào nỗi kinh hãi và bi thương.
Tổng thống John F. Kennedy và vợ trong chuyến thị sát thành phố Dallas trước khi bị ám sát 2 phút |
Mấy chục năm sau, khi nhắc đến thời khắc này, rất nhiều người vẫn còn nhớ chính xác mình đã làm gì khi đó. Rốt cuộc ai là kẻ ám sát Tổng thống? Tại sao kẻ đó lại ám sát Tổng thống? Câu hỏi cho đến nay vẫn là điều bí mật được mọi người bàn tán. Kết luận cuối cùng của Ủy ban Warren thuộc Chính phủ Mỹ cho rằng, đây là một vụ án đơn độc của một tên hung thủ có tên là Oswald, nhưng những điểm nghi vấn của vụ án này quả thực là rất nhiều, và cho đến ngày nay, trong xã hội vẫn lưu truyền nhiều giả thuyết về các âm mưu ám sát Tổng thống.
Trong số
các giả thuyết này, điểm nghi vấn rõ ràng nhất là hung thủ đã thoát khỏi sự
truy đuổi của cảnh sát trong 48 giờ và đã bị một tên sát thủ gốc Do Thái khác bắn
chết ở cự ly gần trước sự chứng kiến của công chúng. Hàng triệu người đã chứng
kiến toàn bộ quá trình mưu sát qua truyền hình, và động cơ của tên hung thủ này
là “muốn thể hiện lòng can đảm của người Do Thái trước toàn thế giới.”
Một điểm
nghi vấn rất lớn khác là, rốt cuộc có bao nhiêu người đã tham gia vụ mưu sát Tổng thống Kennedy? Kết luận của
Ủy ban Warren là trong thời gian 5-6 giây, sát thủ đã bắn liên tiếp ba phát đạn,
trong đó một phát trật mục tiêu, phát tiếp theo trúng cổ và phát cuối cùng
trúng đầu nạn nhân. Chẳng ai tin được tên hung thủ lại có thể bắn chính xác
trong thời gian ngắn như vậy, điều kỳ lạ hơn là viên đạn bắn trúng cổ Tổng thống
lại tiếp tục xuyên vào vị Thống đốc bang ngồi phía trước Tổng thống, mà tỉ lệ
này thì hầu như là bằng không, cho nên người ta gọi đó là “phát đạn thần kỳ.” Rất
nhiều chuyên gia tin rằng, ít nhất không chỉ có một người bắn Tổng thống từ một
hướng, và số lần bắn không chỉ dừng lại ở ba phát đạn.
Theo hồi ức của một cảnh sát lái xe bảo vệ Tổng
thống Kennedy thì: “khi Tổng thống đang bắt tay những người dân đứng chào đón
ông ở phi trường, một đặc vụ của phó Tổng thống Johnson bước đến ra lệnh cho
chúng tôi làm công tác an ninh. Điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là những người
này báo cho chúng tôi là Tổng thống đã thay đổi lộ trình khi sắp vào quảng trường
Deli. Nếu như lộ trình ban đầu được giữ nguyên thì sát thủ có thể không có cơ hội
ra tay. Họ còn đưa ra cho chúng tôi một mệnh lệnh chưa từng nghe thấy, vì trong
tình huống thông thường, bốn chiếc mô-tô hộ tống của chúng tôi phải theo sát bốn
phía của Tổng thống, nhưng lần này, họ ra lệnh cho tất cả chúng tôi chạy theo
phía sau, trong bất cứ tình huống nào cũng không được vượt qua bánh xe sau của
xe Tổng thống đang ngồi. Họ nói rằng, sở dĩ làm như vậy là để cho “tầm nhìn của
mọi người không bị che khuất.”.. Một người bạn khác của tôi [là vệ sĩ của Phó Tổng
thống Johnson] kể rằng, trong khoảng 30 hay 40 giấy trước khi thấy phát đạn thứ
nhất, Johnson đã khom người xuống trong xe, thậm chí trước khi đoàn xe rẽ sang
đại lộ Houston. Có thể ông ta đang tìm gì đó trên thảm lót xe, nhưng có vẻ như
ông ta đã dự cảm được sẽ có viên đạn bay qua vậy.”
Xuống phi trường Washington trên một chuyên cơ, Đệ
nhất phu nhân Jacqueline vẫn mặc chiếc áo choàng thấm đẫm máu của Kennedy. Bà tỏ
ra kiên trì như vậy chính là để cho “lũ giết người thấy được tội ác chúng phạm
phải.” Tên hung thủ Oswald lúc này vẫn bị cảnh sát giam giữ. “Chúng” mà
Jacqueline nói đến ở đây là những ai? Trong di chúc của mình, Jacqueline đã nói
rằng, trong vòng 50 năm sau khi bà qua đời (ngay 19 tháng 5 năm 2044), nếu đứa
con trai út của bà tạ thế, bà sẽ ủy quyền cho thư viện Kennedy công bố một phần
500 trang tài liệu liên quan đến Kennedy. Điều khiến bà không thể ngờ được rằng,
đứa con trai út của bà đã mất mạng trong một tai nạn máy bay năm 1999.
Năm 1968, Robert Kennedy – em trai của cố Tổng thống
Kennedy, người giữ vai trò quan trọng trong việc vận động dân quyền – ngay sau
khi được để bạt vào vị trí ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân chủ, gần như nắm
chắc cơ hội thắng lợi, trong một buổi tiệc mừng thắng lợi, bất ngờ trúng đạn lạc
và chết ngay giữa đại sảnh.
Trong khoảng thời gian ba năm ngắn ngủi sau khi Tổng
thống Kennedy bị ám sát, 18 nhân chứng quan trọng lần lượt tử vong, trong số đó
có 6 người bị bắn chết, 3 người chết vì tai nạn xe hơi, 2 người tự sát, 1 người
bị cắt cổ, 1 người vị vặn gãy cổ, 5 người đột tử. Trong bài viết đăng trên tờ
Sunday Times tháng 2 năm 1967, nhà toán học người Anh đã nói rằng, kiểu xác suất
trùng hợp ngẫu nhiên này là một phần 100 triệu tỉ. Từ năm 1963 đến năm 1993,
115 nhân chứng liên quan đến các vụ việc này đã tự sát hoặc bị mưu sát.
Vẫn còn rất nhiều tài liệu, hồ sơ và chứng cứ được
Ủy ban Warren giữ kín khiến người ta sinh nghi và theo luật thì mãi đến năm
2039 mới được công bố. Đây là những tài liệu liên quan đến các tổ chức như CIA,
FBI, chuyên viên bảo vệ Tổng thống, Cục An ninh quốc gia (NSA), Bộ Ngoại giao,
những nhân vật chóp bu của cục hải quân lục chiến. Ngoài ra, FBI và các tổ chức
Chính phủ khác cũng bị nghi ngờ có dính líu đến việc hủy hoại chứng cứ.
Tính đến năm 2003, tức là 40 năm sau ngày Kennedy
bị ám sát, hãng truyền thông ABC của Mỹ đã thực hiện một cuộc điều tra độc lập,
70% người dân Mỹ cho rằng việc ám sát Tổng thống Kennedy là một âm mưu có quy
mô rất lớn.
Việc điều phối và tổ chức ám sát có quy mô lớn
như vậy, việc ém nhẹm chứng cứ và nhân chứng cho thấy rõ rằng, sự kiện ám sát Tổng
thống Kennedy đã không còn là một cuộc mưu sát bí mật nữa, mà giống như một cuộc
hành quyết công khai nhiều hơn hòng dằn mặt các Tổng thống Mỹ với một thông điệp:
các vị Tổng thống cần phải biết rằng ai mới là chúa tể thật sự của đất nước
này.
Vấn đề là, gia tộc Kennedy cũng là dòng họ thân
thuộc của các tập đoàn Ngân hàng quốc tế. Joseph Kennedy – cha của Kennedy –
chính là một đại gia phát tài trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1929, sau
này được Tổng thống Roosevelt bổ nhiệm vào chức Chủ tịch Uy ban Giao dịch Chứng
khoán (SEC) Mỹ. Trước đó, trong thập niên 40, Joseph Kennedy đã được xếp vào
hàng ngũ những người giàu nhất nước Mỹ. Nếu không phải là con trai của một đại
gia giàu có như vậy, Kennedy khó có thể trở thành Tổng thống theo tín ngưỡng
Thiên Chúa giáo đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ. Vậy Kennedy đã làm gì nên tội với
tầng lớp ưu tú thống trị kia để đến nỗi bị giết hại dã man như thế?
Kennedy là một nhân vật tài năng với hoài bão lớn.
Ông đã ngồi vào chiếc ghế Tổng thống khi tuổi đời còn rất trẻ. Trong vụ khủng
hoảng đạn đạo ở Cu Ba, ông đã biểu lộ sự kiên định, thái độ dứt khoát rõ ràng,
thậm chí ông tỏ thái độ sẵn sàng đối mặt với nguy cơ bùng nổ chiến tranh hạt
nhân với Liên Xô. Cuối cùng, Kennedy đã buộc Nguyên soái Liên Xô – Nikita
Sergeyevich Khrushchev – phải nhượng bộ. Kennedy còn tích cực thúc đẩy kể hoạch
chinh phục không gian của Mỹ và biến nước này trở thành quốc gia đầu tiên đưa
người lên mặt trăng. Cho dù không thể tận mắt chứng kiến thời khắc vĩ đại đó,
nhưng Kennedy có một sức lôi cuốn thần kỳ và nó đồng hành cùng tất cả dân chúng
Mỹ trong toàn bộ kế hoạch. Ở phương diện vận động thúc đẩy dân quyền, gia tộc
Kennedy đã có công sức đóng góp rất lớn. Năm 1962, một sinh viên da đen muốn
đăng ký vào trường Đại học Mississippi và gây nên sự phản đối kịch liệt của người
da trắng. Lúc này, tất cả mọi ánh mắt của người dân Mỹ đều đỗ dồn vào Tổng thống
Kennedy. Họ muốn chứng kiến cách thức mà Tổng thống giải quyết mâu thuẫn này ra
sao. Tổng thống Kennedy đã ra lệnh điều động 400 nhân viên chấp pháp liên bang
và đội cảnh sát 3000 người để hộ tống người sinh viên da đen này đến trường học.
Hành động này đã làm chấn động xã hội nước Mỹ và ngay lập tức, các thanh niên Mỹ
đã nô nức tham gia đội quân hòa bình, tình nguyện đi đến các nước thuộc Thế giới
thứ ba để hỗ trợ phát triển giáo dục, y tế và nông nghiệp.
Trong thời gian ba năm nắm quyền ngắn ngủi, Tổng
thống Kennedy đã tạo nên những điều kỳ diệu trong xã hội. Với hòi bão lớn và ý
chí quyết đoán cộng thêm sự mến mộ của người dân Mỹ cũng như sự kính trọng của
các nước trên thế giới, không lẽ Kennedy lại chịu làm một nhân vật bù nhìn?
Một khi muốn thực hiện những điều tốt đẹp cho xã
hội và nhân dân, chắc chắn Kennedy sẽ buộc phải đối đầu với những kẻ thống trị
hùng mạnh vô hình sau lưng.
Khi mâu thuẫn về quyền phát hành tiền tệ lên đến
đỉnh điểm thì có lẽ Kennedy cũng không thể biết rằng, vận đen của ông đã đến.
Ngày 4 tháng 6 năm 1963, Kennedy đã ký sắc lệnh số
11110 cho phép Bộ Tài chính Mỹ dùng bạc trắng dưới bất cứ hình thức nào, bao gồm:
bạc thỏi, đồng tiền bạc và đô-la Mỹ bằng bạc để làm cơ sở phát hành “chứng chỉ
bạc trắng” (Silver Certificate) và lập tức đưa vào hệ thống lưu thông tiền tệ
trên thị trường.
Ý đồ của Kennedy hết sức rõ ràng: giành lại quyền
phát hành tiền tệ từ tay Cục Dự trữ Liên bang Mỹ do các ngân hàng trung ương tư
hữu chi phối. Nếu kế hoạch này được thực thi thì Chính phủ Mỹ sẽ từng bước
thoát khỏi cảnh “vay tiền” của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ với mức lãi suất cao ngất
ngưởng. Như vậy, đồng tiền được bảo đảm bằng bạc trắng không phải là tiền nợ mà
là “tiền thực” – thành quả lao động của dân chúng tạo nên. Sự lưu thông của “chứng
chỉ bạc trắng” sẽ từng bước làm suy giảm dòng lưu thông của “đồng đô-la” do Cục
Dự trữ Liên bang phát hành, và rất có thể sẽ khiến cho ngân hàng Cục Dự trữ
Liên bang phá sản.
Nếu mất đi quyền không chế phát hành tiền tệ, các
nhà Ngân hàng quốc tế sẽ mất đi phần lớn sức ảnh hưởng đối với của cải của đất
nước này. Đây là vấn đề cơ bản của việc sống chết tồn vong.
Nếu muốn làm rõ lý do và ý nghĩa của sắc lệnh Tổng
thống số 11110, chúng ta cần phải tìm hiểu về lịch sử thăm trằm của đồng đô-la
Mỹ.
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 7.
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét