Ngân hàng thanh toán quốc tế: Trụ sở của các nhà tài phiệt
Chuyên gia
tiền tệ nổi tiếng Franz Pieck đã từng nói: “Số phận của đồng tiền cũng chính là
số phận của đất nước.”
Tương tự
như vậy, số phận của tiền tệ thế giới cũng sẽ quyết định số phận của thế giới.
Trên thực tế,
Ngân hàng thanh toán quốc tế là tổ chức ngân hàng được thành lập sớm nhất nhưng
tiếng nói của nó lại không có trọng lượng nên hầu như chẳng mấy ai quan tâm tới
nó. Vì thế, đến giới học giả cũng không thể nghiên cứu đầy đủ về nó được.
Trụ sở Ngân hàng thanh toán Quốc tế Basel - Thụy Sĩ |
Hàng năm,
ngoại trừ tháng 8 và tháng 10, còn vào 10 tháng kia, cứ mỗi tháng một lần lại
có một số nhân vật ăn mặc sang trọng từ London, Washington và Tokyo bí mật cùng
kéo nhau đến Basel của Thụy Sĩ, và đều ở lại khách sạn Euler để tham dự vào một
hội nghị bí mật nhất, thầm lặng nhất nhưng lại có sức ảnh hưởng lớn nhất trên
thế giới. Để phục vụ cho hội nghị đó cùng với những người tham dự, ngoài việc
luôn có hơn 300 người phục vụ trong mọi hoạt động từ lái xe, đầu bếp, vệ sĩ,
đưa thư, phiên dịch, tốc ký, thư ký cho tới cả việc nghiên cứu, thì còn có thêm
các hệ thống siêu máy tính, sân tennis, hồ bơi, thậm chí là cả các câu lạc bộ với
đầy đủ những trang thiết bị hiện đại nhất.
Những người
có thể tham gia vào câu lạc bộ siêu cấp này đều phải tuân thủ những quy định hết
sức nghiêm ngặt, và chỉ có những nhà tài phiệt ngân hàng đầu não với khả năng
kiểm soát lãi suất, quy mô tín dụng cũng như nguồn cung ứng tiền tệ theo từng
ngày của các nước mới đủ điều kiện để được tham gia vào câu lạc bộ này. Họ
chính là các Chủ tịch của Cục
Dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng Anh, Ngân hàng Nhật Bản, Ngân hàng Quốc gia Thụy
Sĩ và Ngân hàng Trung ương Đức. Tổ chức này hiện đang nắm giữ khoản 40 tỉ đô-la
Mỹ tiền mặt, công trái chính phủ các nước, và cả một lượng vàng bằng 10% tổng
lượng dự trữ toàn thế giới, chỉ đứng sau ngân khố quốc gia của Mỹ. Và chỉ cần sử
dụng đúng lợi nhuận từ việc cho vay vàng thì cũng có thể chi trả hết được toàn
bộ chi phí cho ngân hàng đó. Vậy nên, mục đích của hội nghị bí mật hàng tháng
chính là để cân đối và khống chế hoạt động tiền tệ của các nước công nghiệp.
Toà nhà đặt trụ sở của Ngân hàng thanh toán quốc
tế có hầm ngầm tránh bom hạt nhân, đầy đủ các trang thiết bị y tế, hệ thống
phòng cháy hiện đại tới mức cho dù có xảy ra cháy lớn thì cũng không cần phải
huy động đến lính cứu hỏa bên ngoài. Trên tầng cao nhất của tòa nhà này có một
nhà ăn tráng lệ chỉ dùng riêng cho những thực khách quý cao cấp đến tham dự hội
nghị “Basel cuối tuần” này. Tại đây, khi đứng trên bục pha lê lớn nhất trên
phòng ăn và phóng tầm mắt về bốn hướng thì đều thấy được cảnh đẹp tráng lệ của
ba quốc gia Đức, Pháp và Thụy Sĩ.
Ngoài ra, tất cả máy tính tại trung tâm máy tính
của tòa nhà đều có đường mạng riêng kết nối trực tiếp đến các ngân hàng đầu não
của các nước. Chính vì vậy mà mọi số liệu của thị trường tài chính thế giới đều
được hiển thị liên tục trên màn hình đặt tại đại sảnh. Mười tám giao dịch viên
liên tục giải quyết các giao dịch cho vay ngắn hạn trên thị trường tiền tệ châu
Âu. Còn các giao dịch viên về vàng làm việc trên một tầng khác luôn bận rộn với
những cuộc giao dịch không ngừng về tiền và vàng giữa các ngân hàng đầu não qua
điện thoại.
Đối với mọi
giao dịch thì Ngân hàng thanh toán quốc tế hầu như chẳng bao giờ phải chịu bất
cứ rủi ro nào, bởi mọi giao dịch đối với cho vay hay vàng đều có tài khoản của
các nhà tài phiệt ngân hàng đầu não đảm bảo phí thanh toán quốc tế ở mức cao.
Lúc này, một câu hỏi xuất hiện, đó là tại sao những nhà tài phiệt ngân hàng đầu
não này lại chấp nhận để cho Ngân hàng thanh toán quốc tế này xử lý những nghiệp
vụ hết sức cơ bản này với một mức phí cao đến như vậy?
Chỉ có một
câu trả lời duy nhất cho điều này, đó chính là “giao dịch bí mật.”
Thành lập
năm 1930, Ngân hàng thanh toán quốc tế ra đời đúng thời kỳ diễn ra cuộc đại khủng
hoảng trên toàn thế giới suy thoái nghiêm trọng nhất. Với tình trạng đó, các
ông chủ ngân hàng trên thế giới đã bắt đầu nghĩ tới một hệ thống lớn mạnh hơn
so với Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ. Ý tưởng xây dựng một ngân hàng của các nhà tài phiệt đã ra đời. Khi được
thành lập, Ngân hàng thanh toán quốc tế hoạt động chủ yếu dựa vào bản hiệp định
The Hague năm 1930. Theo đó, nó hoàn toàn độc lập với Chính phủ các nước, được
miễn nộp thuế cho Chính phủ các nước bất kể thời chiến hay thời bình. Ngoài ra,
nó chỉ giao dịch về các khoản tiền gửi của các ngân hàng trung ương các nước với
một mức phí thu khá cao cho mỗi cuộc giao dịch đó. Vào thập niên 30 – 40 – thời
điểm nền kinh tế thế giới đang suy thoái và khủng hoảng nghiêm trọng, khi ngân
hàng trung ương các nước châu Âu đua nhau gửi vàng vào Ngân hàng thanh toán quốc
tế - cũng là lúc mà các món nợ thanh toán quốc tế và bồi thường chiến tranh nhất
loạt được tiến hành kết toán thông qua Ngân hàng thanh toán quốc tế.
Hjalmar Schacht |
Người vạch ra toàn bộ kế hoạch này chính là Hjalmar Schacht của Đức. Năm 1927, chính Hjalmar Schacht cùng với Strong của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ở New York và Norman của Ngân hàng Anh đã bí mật bàn nhau kế hoạch làm rớt giá thị trường cổ phiếu năm 1929. Đến đầu những năm 30, Hjalmar Schacht đi theo con đường chủ nghĩa phát xít. Còn mục đích của việc thành lập ra Ngân hàng thanh toán quốc tế là để tạo ra sân chơi có thể bí mật cung cấp tài chính cho ngân hàng trung ương các nước. Trên thực tế, trong thời gian diễn ra Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, các nhà Ngân hàng quốc tế của Anh và Mỹ đã thông qua sân chơi này để cung cấp một lượng tài chính lớn cho nước Đức phát xít, nhằm giúp cho nước Đức kéo dài thêm thời gian cho cuộc chiến đến hết mức có thể.
Sau khi Đức tuyên chiến với Mỹ, hàng loạt vũ khí
tối tân của Mỹ với danh nghĩa của các nước trung lập đã được vận chuyển vào Tây
Ban Nha và Pháp trước khi được chuyển tới Đức. Rất nhiều nghiệp vụ tài chính
trong các vụ việc đó đều do chính Ngân hàng thanh toán quốc tế kết toán.
Bên cạnh đó, thành viên Hội đồng quản trị của
Ngân hàng thanh toán quốc tế lại do chính các nhà tài phiệt ngân hàng của hai
bên tham chiến dựng nên, gồm có: Thomas McKittrick của Mỹ và Hermann Shmitz –
nhân vật đầu não của I.G.Farben trong ngành công nghiệp thời Đức Quốc xã, nhà
tài phiệt ngân hàng Đức – Nam tước Klemens Freiherr von Ketteler, cùng với
Walther Funk và Emil Pauhl của ngân hàng Đức Quốc xã do chính Adolf Hitler chỉ
định.
Tháng 3 năm 1938, sau khi chiếm được Áo, quân Đức
đã vơ vét hết sạch vàng của Vienna. Lượng vàng này cũng như lượng vàng thu được
ở Tiệp Khắc và các quốc gia châu Âu khác được quân Đức mang gửi vào trong kho của
Ngân hàng thanh toán quốc tế. Thành viên người Đức trong hội đồng quản trị đã cấm
thảo luận vấn đề này trong các cuộc họp hội đồng. Trước đó, số vàng của Tiệp Khắc
khi chưa bị Đức chiếm đóng đã được chuyển đến Ngân hàng Anh, nhưng khi đến chiếm
đóng, quân phát xít đã ép Ngân hàng Tiệp Khắc để đòi lại số vàng này. Norman của
Ngân hàng Anh lập tức đồng ý. Kết quả, số vàng đó được Đức dùng để mua một lượng
lớn vũ khí cho chiến tranh.
Ngay khi được một nhà báo Anh tiết lộ ra ngoài,
tin này lập tức khiến dư luận hết sức chú ý. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Henry
McKensey đã đích thân gọi điện thoại cho John Simon, Bộ trưởng Tài chính Anh, để
xác minh thông tin, nhưng đã bị Simon phủ nhận ngay. Sau này, khi được hỏi về vấn
đề này, Thủ tướng Chamberlain trả lời rằng không hề có chuyện đó. Sở dĩ
Chamberlain trả lời như vậy bởi ông chính là một cổ đông lớn của Imperial
Chemical Industries – một bạn hàng thân thiết của I.G.Farben thời Đức Quốc xã.
Cochran – người được Bộ Tài chính Mỹ cử đến điều
tra tình hình Ngân hàng thanh toán quốc tế - đã miêu tả mối quan hệ đối đầu giữa
Ngân hàng thanh toán quốc tế với nước Đức Quốc xã như thế này: “Bầu không khí
Basel hoàn toàn hữu nghị. Hầu hết các nhà tài phiệt ngân hàng đầu não đều đã
quen biết nhau nhiều năm. Việc gặp lại nhau đều khiến tất cả họ cảm thấy vui mừng
vì mỗi lần như vậy, họ đều thu về được một khoản lợi nhuận lớn. Trong số họ có
người đề xuất cần phải dẹp bỏ những mối bất hòa giữa đôi bên. Mọi người có lẽ
là nên đi câu cá cùng Tổng thống Roosevelt, bỏ bớt tính kiêu ngạo và mâu thuẫn
cá nhân với nhau để cùng tiến tới bầu không khí dễ chịu hơn, cũng như để có thể
khiến cho mối quan hệ chính trị phức tạp trước mắt được đơn giản hơn.”
Sau này, khi bị buộc phải thừa nhận rằng số vàng
của Tiệp Khắc đã được chuyển giao cho Đức Quốc xã, Ngân hàng Anh đã giải thích
rằng: đó chỉ là giao dịch nghiệp vụ, còn số vàng đó chưa từng được xuất ra khỏi
nước Anh. Tất nhiên, với sự tồn tại của Ngân hàng thanh toán quốc tế thì chỉ cần
thay đổi mấy chữ số trên phiếu ghi thanh toán của ngân hàng là việc vận chuyển
vàng cho Đức Quốc xã sẽ suôn sẻ. Qua đó chúng ta mới thấy thán phục tài năng của
Hjalmar Schacht – người đã thiết kế ra một sân chơi tài chính khéo léo đến như
vậy vào năm 1930 nhằm hậu thuẫn cho cuộc đại chiến sau này của Đức.
Năm 1940,
Thomas H. McKittrick được bầu làm Chủ tịch Ngân hàng thanh toán quốc tế. Tốt nghiệp Đại học Harvard, từng
đảm nhận chức Chủ tịch Hội thương mại Anh, thông thạo tiếng Đức, Pháp và Ý, có
mối quan hệ mật thiết với phố Wall cũng như từng thực hiện thương vụ cho Đức Quốc
xã vay vàng với số lượng lớn, sau khi nhậm chức không lâu, Thomas đã đến Berlin
để tiến hành hội đàm bí mật với ngân hàng trung ương Đức và Gestapo. Các nhà
tài phiệt ngân hàng xác định rằng, một nghi Mỹ tham dự vào cuộc chiến thì nghiệp
vụ ngân hàng sẽ phải được bàn bạc và thông qua cụ thể. Ngày 27 tháng 5 năm
1941, theo yêu cầu của Bộ trưởng Tài chính Morgenthau, Hull – Bộ trưởng Ngoại
giao Mỹ - đã gọi điện cho Đại sứ Mỹ tại Anh yêu cầu điều tra thật rõ mối quan hệ
giữa Chính phủ Anh và Ngân hàng thanh toán quốc tế dưới sự kiểm soát của phát
xít. Kết quả điều tra đã khiến Morgenthau nổi giận khi biết Norman của Ngân
hàng Anh luôn có mặt trong Hội đồng quản trị của Ngân hàng thanh toán quốc tế. Thực
ra, các nhà tài phiệt ngân hàng của Anh, Pháp và Mỹ đều coi người Đức là những
người bạn tốt và thân thiết trong Hội đồng quản trị của ngân hàng, mặc dù trên
chiến trường họ là kẻ thù không đội trời chung. Mối quan hệ bằng hữu kỳ
lạ này luôn được duy trì cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Ngày 5 tháng 2 năm 1942, sau hai tháng Nhật Bản
đánh úp Trân Châu Cảng, Mỹ đã bước vào cuộc chiến tranh trực diện với Đức. Tuy
nhiên, điều kỳ lạ là cả ngân hàng trung ương Đức và Chính phủ Ý đều đồng ý cho
Thomas H. McKittrick, một người Mỹ, tiếp tục nắm giữ chức Chủ tịch Ngân hàng
thanh toán quốc tế cho đến khi kết thúc chiến tranh, còn Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
vẫn tiếp tục duy trì nghiệp vụ đều đặn với Ngân hàng thanh toán quốc tế.
Trước đó, do vẫn luôn giữ thái độ nghi ngờ về mối
quan hệ mập mờ giữa Ngân hàng thanh toán quốc tế với ngân hàng nước này nên
Công đảng Anh đã nhiều lần yêu cầu Bộ Tài chính phải có sự giải trình rõ ràng.
Tuy nhiên, họ chỉ nhận được lời giải thích rằng: “Nhà nước ta được hưởng rất
nhiều quyền lợi từ Ngân hàng thanh toán quốc tế, mà điều đó hoàn toàn dựa trên
sự thỏa thuận giữa Chính phủ các nước. Vậy nên việc cắt đức mối quan hệ với
ngân hàng này là không phù hợp với lợi ích của nước ta.” Trong chiến tranh,
ngay cả những hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa các quốc gia đều có thể bị
phá bỏ bất cứ lúc nào. Vậy mà Bộ Tài chính Anh lại chắc chắn về sự thỏa thuận
giữa các nhà tài phiệt ngân hàng của các nước khiến người khác không thể không
“thán phục thái độ nghiêm túc” của người Anh trong chuyện này. Nhưng đến năm
1944, sau khi phát hiện ra Đức Quốc xã hầu như đã thu hết lợi nhuận của ngân
hàng thanh toán thì sự hào phóng của nước Anh lại khiến người ta không khỏi
nghi ngờ.
Mùa xuân năm 1943, bất chấp sự an nguy đến tính mạng,
Thomas H. McKittrick vẫn đi lại như con thoi giữa các nước tham chiến. Cho dù
không phải là công dân Ý và cũng chẳng phải là nhà ngoại giao Mỹ, nhưng Thomas
H. McKittrick vẫn được Chính phủ Ý cấp hộ chiếu ngoại giao. Khi ở Đức, ông ta
còn được cả đặc vụ của Hitler đi theo bảo vệ suốt chặn đường đến Roma, Sau đó tới
Lisbon xuống thuyền Thụy Điển trở về Mỹ. Tháng 4, ông ta đến New York tiến hành
thảo luận chi tiếc với các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang. Sau đó, với tấm
hộ chiếu Mỹ, ông ta tới Thủ đô Berlin của Đức để truyền đạt thông tin tài chính
tuyệt mật cũng như thái độ của giới quyền lực ở Mỹ cho các quan chức của Ngân
hàng trung ương Đức biết.
Ngày 26 tháng 3 năm 1943, tại Hạ viện, Jerry
Voorhis – Nghi sĩ bang California – đã đề xuất điều tra hoạt động mờ ám của
Ngân hàng thanh toán quốc tế nhằm làm rõ “nguyên nhân vì sao một công dân Mỹ đảm
nhiệm chức Chủ tịch của ngân hàng đó do các nước cùng thỏa thuận và gây dựng
nên”, nhưng Quốc hội Mỹ và Bộ Tài chính đều phớt lờ và không tiến hành điều
tra.
Đến tháng 1 năm 1944, John Kowfey – một Nghị sĩ hạ
viện “nhiều chuyện” khác – đã bày tỏ một cách phẫn nộ: “Chính phủ Đức Quốc xã
có 85 triệu phờ-răng vàng Thụy Sĩ cất giữ ở Ngân hàng thanh toán quốc tế. Trong
khi tiền vàng của nước Mỹ chúng ta luôn chảy vào đó thì hầu hết các thành viên
Hội đồng quản trị của ngân hàng này đều là quan chức Đức Quốc xã.”
Người ta vẫn không hiểu nổi tại sao một quốc gia
đang rơi vào tình trạng bốn bề chiến sự như Thụy Sĩ mà vẫn giữ được thế “trung
lập”, trong khi những quốc gia láng giềng như Vương Quốc Bỉ, Luxembourg, Na Uy
hay Đan Mạch cho dù có muốn duy trì thế trung lập cũng khó mà tránh khỏi gót giày của quân phát
xít. Thực ra, bản chất của vấn đề nằm ở chỗ trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế
được đặt tại Thụy Sĩ và đó chính là nơi để các ông chủ ngân hàng Anh – Mỹ cung
cấp tài chính nhằm giúp Đức kéo dài cuộc chiến tới mức có thể.
Ngày 20 tháng 7 năm 1944, nội dung được đưa ra thảo
luận tại Hội nghị Bretton Systems chính là xóa bỏ Ngân hàng thanh toán quốc tế.
Mới đầu, hai tổng công trình sư Keynes và Harry Dexter White đã đồng ý xóa bỏ
ngân hàng này khi nhận thấy có quá nhiều cặp mắt hoài nghi đổ dồn vào các hoạt
động của ngân hàng trong thời chiến tranh. Nhưng sau đó, cả hai đều nhanh chóng
thay đổi hướng suy nghĩ. Lập tức Keynes tới gõ cửa phòng của Morgenthau, Bộ trưởng
Tài chính Mỹ, khiến Morgenthau hết sức ngạc nhiên khi thấy Keynes – một nhân vật
ôn hòa mà mực thước – đang bị kích động với sắc mặc đỏ bừng. Keynes đã cố
hết sức bình tĩnh để nói cho Morgenthau biết rằng Ngân hàng thanh toán quốc tế
cần phải tiếp tục được hoạt động cho đến khi Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng
thế giới được thành lập. Cùng với chồng, vợ của Keynes bỗng chốc cũng
trở thành thuyết khách đối với Morgenthau. Chỉ khi nhận thấy Morgenthau đang phải
chịu áp lực chính trị rất lớn về việc buộc phải giải tán Ngân hàng thanh toán
quốc tế, Keynes mới nhượng bộ và thừa nhận rằng ngân hàng này cần phải đóng cửa,
nhưng cần chọn thời gian đóng cửa thật thích hợp, trong khi Morgenthau chủ
trương “càng nhanh càng tốt.”
Cảm thấy mệt mỏi, Keynes trở về phòng mình và
ngay lập tức cho triệu tập một cuộc họp khẩn cấp của đoàn đại biểu Anh. Cuộc họp
đã kéo dài đến 2 giờ sáng, và đích thân Keynes đã viết ngay một bức thư gửi đến
Morgenthau với nội dung yêu cầu Ngân hàng thanh toán quốc tế phải được tiếp tục
hoạt động.
Ngày hôm sau, đoàn đại biểu của Morgenthau đã khiến
cả hội nghị bất ngờ khi thông qua quyết định giải tán Ngân hàng thanh toán quốc
tế. Ngay khi biết được quyết định này, Thomas H. McKittrick lập tức viết thư
cho Morgenthau và Bộ trưởng Tài chính Anh. Lá thư nhấn mạnh rằng, sau khi chiến
tranh kết thúc thì Ngân hàng thanh toán quốc tế vẫn có một vai trò rất lớn, đồng
thời ông cũng bày tỏ rằng mọi sổ sách của Ngân hàng thanh toán quốc tế là thứ
không thể công khai. Bởi trên thực tế trong vòng 76 năm kể từ năm 1930 đến nay,
tất cả sổ sách của ngân hàng này chưa hề được bất kể Chính phủ nào công bố công
khai.
Bất chấp mọi hành động đáng ngờ của Thomas H.
McKittrick trong chiến tranh, nhưng Rockefeller vẫn bổ nhiệm ông ta làm Phó Chủ
tịch Ngân hàng Chase Manhattan và đều nhận được sự tán thưởng của các nhà tài
phiệt Ngân hàng quốc tế. Còn Ngân hàng thanh toán quốc tế rốt cuộc cũng không bị
giải tán.
Tuy nhiên, sau chiến tranh, Ngân hàng thanh toán
quốc tế đi vào hoạt động bí mật dưới hình thức câu lạc bộ trung tâm của sáu, bảy
nhà tài phiệt ngân hàng đầu não, bao gồm Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng quốc
gia Thụy Sĩ, Ngân hàng liên bang Đức, Ngân hàng Ý, Ngân hàng Nhật Bản và Ngân
hàng Anh. Còn Ngân hàng Pháp và các ngân hàng trung ương của các quốc gia khác
đều bị gạt ra ngoài.
Ý đồ lớn nhất của câu lạc bộ này chính là phải
kiên quyết không để Chính phủ các nước được tham gia vào quá trình đưa ra quyết
sách tiền tệ quốc tế. Ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ và Ngân hàng liên bang Đức là
các ngân hàng tư nhân và hoàn toàn không chịu sự quản lý của Chính phủ. Thậm
chí Poor, Chủ tịch của Ngân hàng liên bang Đức thà ngồi xe Limousine của mình
còn hơn ngồi máy bay do Chính phủ bố trí đến dự Hội nghị Basel ở Thụy Sĩ. Ở một
mức độ nào đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cũng chịu sự kiểm soát của Chính phủ,
nhưng trong việc quyết định các chính sách liên quan đến vấn đề tiền tệ thì Nhà
Trắng và Quốc hội hoàn toàn không được phép can thiệp. Mặc dù Ngân hàng Ý chịu
sự quản lý của Chính phủ trên danh nghĩa, nhưng vị Chủ tịch của ngân hàng này lại
chẳng bao giờ bận tâm đến Chính phủ. Chính vì thế mà năm 1979, bất chấp việc
Chính phủ ra lệnh bắt Paolo Baffi – Chủ tịch Ngân hàng Ý – các nhà tài phiệt
Ngân hàng quốc tế đã gây sức ép đối với Chính phủ Ý buộc phải bãi bỏ lệnh bắt
này. Tình hình của Ngân hàng Nhật Bản khá đặc biệt. Sau khi thị trường bất động
sản bong bóng ở Nhật những năm 80 bị phá sản thì Bộ Tài chính bị kết tội, còn
Ngân hàng Nhật Bản nhân cơ hội này đã thoát khỏi sự kiểm soát của Chính phủ.
Ngân hàng Anh tuy bị Chính phủ quản lý rất chặt nhưng Hội đồng quản trị của nó
đều là những nhân vật tai to mặt lớn nên cũng được coi là thành viên hạt nhân.
Riêng Ngân hàng Pháp thì chẳng được may như vậy, bởi nó chỉ là con rối của
Chính phủ nên đã bị gạt bỏ ra khỏi câu lạc bộ này một cách kiên quyết.
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 6.
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét