Không có Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ thì không có cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất
Khi nói về
sự bùng phát của cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, trong cuốn Thuật
Ngoại giao (Diplomacy) nổi tiếng của mình, Kissinger đã có một câu bình luận
rất ấn tượng rằng: “Điều khiến người ta kinh ngạc là cuộc Chiến tranh Thế giới
lần thứ nhất bùng nổ không phải do một sự việc không thấm tháp gì so với các cuộc
khủng hoảng khác trước đó, mà là bởi nó bùng nổ sau một thời gian rất dài.”
Ngày 28
tháng 6 năm 1914, Thái tử Franz Ferdinand của Vương triều Habsburg – vương triều
chính thống châu Âu bị Osterreich thôn tính vào năm 1908 – đã bị một thích
khách trẻ tuổi người serbia ám sát. Đây chỉ là một hành vi phục thù trong kế hoạch
của một tổ chức khủng bố đơn thuần. Lúc đó, chẳng ai nghĩ rằng việc này lại trở
thành ngòi nổ cho một cuộc chiến trên toàn cầu, kéo theo 30 quốc gia, 1,5 tỉ
người vào vòng khói lửa và làm thương vong hơn 30 triệu người.
Do cuộc chiến
tranh Pháp – Phổ nổ ra mà Pháp và Đức đã trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau,
trong khi nước Anh thoát khỏi chính sách đại lục châu Âu “quang kinh cô lập” và
phải đối diện với cục diện Đức mạnh Pháp yếu. Lúc này, Đức đã trở thành cường
quốc số một châu Âu, nếu không khống chế được, quốc gia này ắt sẽ trở thành mối
lo thường trực của Anh. Vậy là Anh lôi kéo Nga vốn cũng là nước có chút hiềm
khích với Đức, cùng Pháp thành lập Hiệp ước ba nước (Triple Entente), còn Đức
liên minh với Áo, từ đây hình thành nên hai tập đoàn đối lập lớn nhất châu Âu.
Hai bên
không ngừng chạy đua vũ trang chiến lược, duy trì một đội quân sẵn sàng chiến đấu
có quy mô lớn. Chính phủ các nước đều vì vậy mà lún sâu vào vũng nợ nần. Một bản
báo cáo chi tiết thu thập công nợ của các quốc gia châu Âu cho thấy rằng, số tiền
chi trả lãi suất hàng năm cho các loại công trái lên đến 5.343 tỉ đô-la. Các nước
châu Âu đã lún sâu vào các khoản nợ nần này, còn Chính phủ các nước này thì
không thể kiểm soát nổi tình hình. Cho dù gây ra nhiều khả năng đáng sợ, nhưng
so với tình trạng hòa bình với giá cả đắt đỏ và tình trạng mất ổn định thì có lẽ
chiến tranh là một sự lựa chọn đáng để suy nghĩ.
Từ năm 1887
đến năm 1914, tình hình chính trị bất ổn cộng với giá cả đắt đỏ vẫn bám chặt
châu Âu. Chính phủ các nước châu Âu vì chạy đua vũ trang mà lâm vào nguy cơ
pháp sản nhưng vẫn nhìn nhau bằng con mắt đối địch. Tục ngữ có câu: “Một phát
pháo nổ đáng giá vạn lượng vàng”, hệ thống ngân hàng châu Âu cung cấp các khoản
vay tín dụng cho các bên đối lập do dòng họ Rothschild xây dựng và phát triển,
đã dốc sức xúi giục cuộc đối đầu quân sự này.
Trên thực tế,
các quốc gia đang dùng tiền và lương thực để đánh nhau. Đến năm 1914, một điều
rất rõ ràng là các quốc gia chủ yếu của châu Âu đã không thể gánh vác một cuộc
chiến trên quy mô lớn. Tuy có lực lượng quân đội luôn trong tình trạng sẵn sàng
và một chế độ động viên quân sự phổ cập cũng như hệ thống vũ khí hiện đại nhưng
kinh tế của các quốc gia này lại không đủ sức để chi trả các khoản chi phí chiến
tranh khổng lồ. Tình hình này diễn ra đúng như những gì cơ quan tình báo Nga viết
trong thư gửi Sa hoàng tháng 2 năm 1914, “Không còn nghi ngờ gì nữa, chi phí
chiến tranh sẽ vượt ra ngoài khả năng chịu đựng của Nga. Cho nên, chúng ta cần
phải vay tiền của các nước liên minh và các quốc gia trung lập dù phải trả giá
đắt. Nếu kết quả cuộc chiến bất lợi cho ta, hậu quả kinh tế của việc chiến bại
là khó có thể tính được, nền kinh tế nước nhà sẽ rơi vào trạng thái hoàn toàn
tê liệt. Dù có giành được thắng lợi thì chúng ta cũng không lấy gì làm vui nếu
điều đó gây bất lợi cho nền tài chính nước nhà, bởi một khi thua trận thì nước
Đức cũng sẽ chẳng có gì để bồi hoàn chi phí chiến tranh cho ta. Hiệp ước hòa
bình sẽ mang lại lợi ích cho nước Anh mà không cho phép Đức có được cơ hội phục
hồi kinh tế để trả hết các khoản nợ cho chúng ta, thậm chí sau khi chiến tranh
kết thúc, Đức cũng không thể có khả năng hoàn trả các khoản nợ.”
Trong tình
hình này, cuộc chiến quy mô lớn xảy ra là điều không thể hình dung nổi. Nếu như
chiến tranh thực sự bùng nổ thì cũng chỉ có thể diễn ra trong phạm vi cục bộ,
mang tính tạm thời và ở cấp độ thấp, có thể sẽ giống như cuộc chiến Phổ - Pháp
năm 1870 – một cuộc chiến chỉ kéo dài trong khoản thời gian 10 tháng. Nhưng kết
quả chiến tranh như thế chỉ có thể xoa dịu chứ không thể giải quyết cục diện đối
lập ở châu Âu. Cho nên, thời gian khai chiến chỉ có thể tiếp tục kéo dài trong
sự bất ổn chính trị và giá cả leo thang, mãi cho đến khi có sự ra đời của Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ.
Lúc này, nước
Mỹ bên kia bờ đại dương đã là một cường quốc công nghiệp số một thế giới có
năng lực lớn trong sản xuất công nghiệp và nguồn tài nguyên phong phú. Nhưng
mãi đến năm 1913, Mỹ vẫn là một nước dựa vào các khoản vay nước ngoài và có ít
khả năng cung cấp các khoản vay cho nước ngoài. Nguyên nhân chính là không có sự
hiện diện của ngân hàng trung ương, và bởi vậy mà các nhà ngân hàng New York
khó có thể tập trung điều động nguồn tài chính trong cả nước. Nhưng các nhà
ngân hàng thường có hứng thú với chiến tranh quy mô lớn, bởi chiến tranh sẽ đem
đến cho họ nguồn lợ nhuận khổng lồ. Ngay sau khi đề án Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
được thông qua, các nhà ngân hàng quốc tế lập tức bắt tay hành động. Ngày 3
tháng 8 năm 1914, ngân hàng của Rothschild ở Pháp đã gửi thông báo cho Morgan đề
nghị ngay lập tức chuẩn bị một khoản tín dụng trị giá 100 triệu đô-la Mỹ để
Pháp mua vật tư từ Mỹ. Khi nghe tin, Wilson lập tức phản đối, trong khi William
Jennings Bryan – Bộ trưởng Ngoại giao của Mỹ lúc bấy giờ - lên án khoản vay này
là “giao dịch phi pháp xấu xa nhất.”
Đức và Mỹ xưa
nay chưa từng kết giao với nhau trong kinh tế và chính trị. Lúc này, Mỹ có khoản
8 triệu người Mỹ gốc Đức, chiếm khoản 10% dân số Mỹ, và khi Mỹ lập quốc, suýt nữa
thì tiếng Đức đã trở thành quốc ngữ của Mỹ. Người Mỹ gốc Đức có sức ảnh hưởng
chính trị không nhỏ, thêm vào đó dân nhập cư đến từ Ailen vốn dĩ không mấy thiện
cảm đối với Anh. Chính phủ Mỹ đã từng mấy phen giao chiến với Anh, cho nên ở
giai đoạn sơ khởi của chiến tranh, Chính phủ Mỹ luôn giữ một thái độ dùng dằng,
khác hẳn với các nhà ngân hàng đang sốt ruột như kiến trong chảo nóng. Các đại
gia ngân hàng tích cực xúi giục Mỹ tuyên chiến với Đức, còn Chính phủ thì kiên
quyết phản đối chiến tranh và giữ thế trung lập.
Trước tình
thế này, các nhà tài phiệt ngân hàng bèn nghĩ ra một kế sách tạm thời – cấp tín
dụng cho các nước thuộc khối đồng minh để mua vật tư của Mỹ thay vì cho các nước
này vay tiền thông qua việc bán công trái. Dưới sự bức ép của các nhà ngân
hàng, Wilson buộc phải gật đầu đồng ý. Vì thời gian bầu cử Tổng thống mới cho
nhiệm kỳ tiếp theo sắp đến gần nên Wilson ngày càng nghiêng về lập trường của
các nhà ngân hàng trong vấn đề tham chiến
với hi vọng tái đắc cử lần hai.
Ngày 23
tháng 12 năm 1913, “Dự luật Cục Dự trữ Liên bang” được thông qua, và các điều
kiện cho sự bùng phát một cuộc chiến tranh ở cấp độ thế giới đã bước vào giai
đoạn chính muồi. Cỗ máy chiến tranh vốn im lặng quá lâu cuối cùng đã có thể khởi
động.
Ngày 16
tháng 11 năm 1914, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chính thức đi vào hoạt động. Ngày 16
tháng 12, Davison – cánh tay đắc lực của Morgan đến nước Anh để đàm phán với Thủ
tướng Anh - Herbert H. Asquith – về khả năng Mỹ cung cấp cho Anh một khoản tín
dụng. Ngày 15 tháng 1 năm 1915, ngân hàng Morgan và Anh đã đạt được bản hợp đồng
tín dụng với tổng giá trị là 10 triệu bảng. Đối với Mỹ, việc này là một thương
vụ tương đối khả quang, vì chẳng ai có thể ngờ rằng tổng số khoản vay cuối cùng
lại đạt đến mức 3 tỉ đô-la Mỹ - một khoản vay khổng lồ! Ngân hàng Morgan đã thu
1% phí thủ tục, nghĩa là ngân hàng này xơi trọn 30 triệu đô-la! Mùa xuân năm
đó, Ngân hàng Morgan lại ký hợp đồng tín dụng với Chính phủ Pháp.
Tháng 9 năm
1915 là thời khắc để các ông trùm khảo nghiệm liệu phố Wall có thể đủ sức trở
thành Trung tâm Tài chính Thế giới hay không. Khoản vay Anh – Pháp (Anglo –
French Loan) trị giá 500 triệu đô-la Mỹ chính thức được mở màn. Tổng thống
Wilson vốn dĩ trước đó luôn kiên quyết phản đối việc này đã không chống đỡ được
sự tấn công từ cả phía các nhà ngân hàng lẫn các thành viên nội các. Tân Bộ trưởng
Ngoại giao của Wilson cảnh báo rằng: “Nếu không có các khoản vay này thì nền sản
xuất sẽ bị hạn chế, công nghiệp suy thoái, nguồn vốn và sức lao động bỏ không,
nguy cơ phá sản sẽ diễn ra trên quy mô lớn, sự tức dận và bất mãn của dân chúng
sẽ tăng lên.”
Nghe xong,
Wilson toát mồ hôi lạnh, chỉ còn biết nhượng bộ thêm lần nữa. Đối với việc bán
công trái ra ngoài với quy mô chưa từng có lần này, các ngân hàng ở phố Wall
cũng đã phải tung hết chiêu của mình. 61 nhà tài phiệt ký nhận trách nhiệm
thanh toán công trái và 1.570 cơ cấu tài chính tham gia vào nghiệp vụ phát hành
và tiêu thụ. Đây là một nhiệm vụ cực kỳ gian nan, đặc biệt việc mở rộng tiêu thụ
những công trái này đến miền Trung và Tây Mỹ càng trở nên khó khăn hơn. Người
dân Mỹ đều cho rằng cuộc chiến tranh là vấn đề của châu Âu và họ không có quan
hệ trực tiếp gì trong cuộc chiến tranh đó, đồng thời không muốn đem tiền của đổ
vào cuộc chiến. Để đánh tan nghi ngờ này, các ngân hàng đã mạnh miệng tuyên
truyền rằng, nguồn tiền đầu tư này sẽ ở lại nước Mỹ. Mặc dù đã dùng rất nhiều
chiêu thức, nhưng vùng Trung Tây Mỹ chỉ có một ngân hàng của Chicago chịu gia
nhập vào đội quân của phố Wall. Hành động này lập tức đã gây phẫn nộ đối với hậu
duệ của người Đức ở vùng này. Họ đã phát động kế hoạch ngăn chặn các cuộc vận động
của ngân hàng. Đến cuối năm 1915, vẫn có một khoản công trái trị giá 187 triệu
đô-la Mỹ chưa được bán xong.
Khi chiến
tranh bước sang thời khắc quan trọng, để kiếm được nhiều tiền hơn nữa, Chính phủ
Anh tuyên bố sẽ trưng thu thuế thu nhập lợi tức đối với công trái Mỹ mà người
dân Anh đang nắm giữ. Người dân Anh lập tức bán đổ bán tháo những công trái
này. Ngân hàng Anh đã rất nhanh tay thu mua một lượng khổng lồ công trái Mỹ và
lập tức lệnh cho các công ty đại lý của Morgan ở Mỹ đem những công trái này ra
tiêu thụ ở phố Wall. Các nhà đầu tư Mỹ tự nhiên đón nhận khoản công trái của nước
mình, thật nhanh chóng khoản công trái trị giá 3 tỉ đô-la Mỹ đã chảy vào thị
trường, nước Anh lại thu được một khoản tiền khổng lồ để chi trả cho chiến sự.
Nhưng vị trí chủ nở được tích lũy hơn một trăm năm của người Anh trong thoáng
chốc đã tan theo khói lửa chiến tranh. Từ đây, trong mối quan hệ chủ nợ của Anh
đối với Mỹ đã thay đổi về căn bản.
Tín dụng của
Mỹ như được tiếp thêm dầu vào lửa. Ngọn lửa chiến tranh bắt đầu tức tốc lan
tràn, mức độ thảm khốc của cuộc chiến cũng theo đó mà leo thang cực độ. Chỉ
trong chiến dịch ở sông Mane, chỉ nội một ngày, các nước đồng minh đã tiêu tốn
hết 200 nghìn phát đạn pháo. Nhân loại cuối cùng đã hiểu được rằng, sự kết hợp
giữa hệ thống sản xuất công nghiệp hiện đại, hậu cần hiện đại và thủ đoạn tài
chính hiện đại có thể khiến cho cuộc chiến tranh ngày càng thêm thảm khốc và
kéo dài.
Cuộc chiến
tranh khiến cho vật tư tiêu hao với tốc độ chóng mặt. Chiến tranh đã khiến các
nước tham chiến bất chấp mọi giá để theo đuổi, bất chấp mọi giá để vay ngân
hàng. Đó là lý do giải thích tại sao chiến tranh luôn là điều mà các nhà ngân
hàng mong chờ và yêu thích.
Trích Song Hong Bing, Chiến Tranh Tiền Tệ Phần 1, Chương 4.
Đọc tiếp:
Nhận xét
Đăng nhận xét